và cá suối thường tụ ở hầm hàng đàn, ăn những bọt dầu trầm nổi lên mặt
nước. Nên năng tìm đến đấy, bắn cá ngư hương mà ăn. Còn như những việc
khác, ở trên này có khác với dưới chân núi, các bác chớ lấy làm lạ mà kinh
động vô ích.
Thế rồi người con gái đi khuất. Thế rồi, được lời như mở tấm lòng tục,
bọn thợ mộc khuân rất nhiều đá cuội, cứ từng đống có ngọn một, mang về
trước lều làm gạo nấu cơm và chế rượu uống. Họ đập đá bừa bộn, không
cần để riêng hòn xanh hòn vàng. Mà có cái lạ, là không cần phải nấu nướng
gì, những nhân đá xanh vàng kia, cứ đập rời ra, bốc bỏ mồm là đủ hương vị
một hạt cơm, một hạt xôi rồi. Nhân đá trắng, thả vào những gióng tre Đằng
Ngà khổng lồ đựng nước suối, đem uống với nhau, thấy ngà ngà mà say,
lâng lâng mà khuây vợi lòng tha hương.
Trong khi ấy, ông cụ Sần xách cung sừng và hai cái tên vàng bạc lần
xuống chỗ Bạch đàn đàm, bắn được sáu con cá ngư hương. Lúc trở về đi
qua dưới gốc cây đại cổ kính đầu cành chàng nạng nhẵn nhụi như những
cặp nhung hươu, thấy có chim, ông phó Sần bèn phóng một mũi tên vàng,
dây cung kêu đánh phựt một tiếng. Rồi mũi tên lướt đi rơi qua lùm cây tóc
tiên và rớt xuống cỏ thạch sương bồ bóng loáng nước sơn then. Lại cũng đủ
sáu con chim xiên vào mũi tên như một que chả chim nướng cả con. Mà
thực là một xiên chả. Mùi thơm ở sáu con chim sẻ đồng bị tên vàng cắm
suốt, thơm phưng phức. Ông cụ Sần tháo vòng ngọc đỡ ngón tay, đeo cung
lên vai, trở về lều với xâu chim chín và sâu cá cũng đã chín sẵn chung
quanh cây ngân tiễn.
Sau một bữa ăn có rượu nhân đá, có chả chim ngàn, có chả cá suối, cả
hiệp thợ mộc say sưa, gối đầu lên tràng đục, đánh một giấc không biết trời
đất là gì nữa. Mở mắt dậy, thì cũng như hôm qua, cái ánh sáng trên này lúc
nào cũng nhờ nhờ như nước gạo loãng, không kể sớm, không kể trưa,
không kể tối.