đời người đang xuống cái đầu gẩy bằng sừng bò tót kia cũng hết luôn. Hơi
tơ thiểu não như lời gởi gấm giối giăng. Nó buồn rộng xa nhòe quá một
tiếng lên đường. Thôi thì đây cũng là những tiếng cuối cùng của đời, Cô Tơ
cố bắt buông từng chữ cho thật chín nục để kẻ sắp hết làm người kia đem đi
cho thật đầy đủ cái dư âm của cõi sống. Làn hát chênh đi như lời giã từ
ngượng nghịu.
Trong buồng thờ Chánh Thú, có tiếng cười sằng sặc ở sau cái bài vị.
Bát gương bàn thờ sứ chẻ dọc làm hai mảnh, tiếng nẻ toác to gọn như mắt
tre nổ trong lửa. Hai mảnh sứ nhào lăn xuống nền đất, kêu đánh xoảng.
Riêng Cô Tơ nhận thấy tiếng đổ vỡ này và hiểu nó là điềm báo hiệu của
một điều linh thiêng gì. Qua cái màn mỏng nước mắt, người hát trừng trừng
vào người đàn! Bá Nhỡ vốn đã còm, giờ lại càng khô sút hẳn đi. Máu tuôn
ra nhiều quá, đánh đống quanh chỗ Bá Nhỡ như một khối hồng hoa. Bắt tay
đàn để xuống mạnh một cái đầu gẫy thứ nhất ấy là máu trong người Bá
Nhỡ vợi đi từ đấy. Và thân hình ngót dần đi và teo tóp mãi lại chẳng khác
gì cái xác khô người tăng già khổ hạnh. Hình như tới một chừng mực siêu
thanh nào đó, âm nhạc có cái vật tính là làm quắt lại da thịt và chuốt dài
thân người ra.
Bá Nhỡ chỉ còn là một cái bóng. Bóng loãng dần và không động.
Bóng cứ nhạt mờ thêm mãi qua cái hôn mê của nỗi thảm tình thương và Cô
Tơ chỉ còn nhận thấy có một cái chấm sáng trên thân người ôm đàn là còn
linh động. Ấy là cái mặt ngọc chiếc nhẫn ở ngón tay nắn dây. Tất cả sinh
khí một kiếp người chỉ còn gởi có vào một cái mặt nhẫn linh động theo âm
đàn. Nhưng mà ngón tay cầm đàn gẩy cũng đã uể oải rồi trên con phím. Rồi
bẵng hẳn đi trong phòng không có một tiếng đàn nào nữa. Như một thứ
keo, máu cũ khô quánh đã gắn chặt mười đầu ngón Bá Nhỡ vào mấy sợi tơ
đỏ sẫm và mặt tang ngô đồng hoen ố. Mười ngón như một đã bị đóng đinh
liền vào phím cây đàn.
Máu tuôn đã hết chất nồng và chỉ còn tỏa ra một mùi tanh nhạt.