C luôn mang giá trị như k kể cả đi trước e và i: celeb “bạc” phải đọc
như keleb.
CH chỉ dùng ký âm như trong bach /baχ/ (tiếng Đức hay Wales), không
phải như trong church /t͡ʃɜːt͡ʃ/ tiếng Anh. Ngoài trường hợp đứng cuối từ
hoặc đi trước t, âm này luôn bị nhược hóa thành h trong khẩu ngữ Gondor;
hiện tượng này được phản ánh trong vài tên gọi như Rohan, Rohirrim.
(Imrahil là tên bằng tiếng Númenor.)
DH ghi âm th hữu thanh (mềm) trong these clothes /ðiːz kləʊðz/ tiếng
Anh. Âm này thường liên quan tới d, như trong S. galadh “cây”, so sánh Q.
alda; nhưng đôi lúc lại phái sinh từ n+r, như trong Caradhras “Sừng Đỏ” là
từ caran-rass.
F ghi âm f , nhưng đứng cuối từ là ghi âm v (như trong of /ɒv/ tiếng
Anh): Nindalf, Fladrif.
G chỉ đọc như g trong give, get: âm tiết gil “sao” trong Gildor, Gilraen,
Osgiltiath bắt đầu như gild /gɪld/ tiếng Anh.
H đứng riêng không ghép với phụ âm khác thì đọc như h trong house,
behold. Tổ hợp ht tiếng Quenya đọc như cht, như trong echt, acht [ɛçt; aχt]
tiếng Đức: VD là tên Telumehtar “chòm Thiên Lang”
. So sánh CH, DH,
L, R, TH, W, Y.
I đứng đầu trước mọi nguyên âm khác chỉ đọc như phụ âm y trong you,
yore, /juː; jɔː/ riêng trong tiếng Sindarin: như trong lorth, larwain. Xem Y.
K chỉ dùng trong tên thuộc ngôn ngữ khác ngoài tiếng Tiên, cũng mang
giá trị như c; vì thế kh cũng ký âm giống như ch trong Grishmákh tiếng
Orc, hay Adûnakhôr tiếng Adûnaic (Númenor). Về tiếng Người Lùn
(Khuzdul), xem lưu ý dưới đây.
L ghi âm tương tự l đứng đầu trong tiếng Anh, như trong let. Tuy nhiên
âm này bị ngạc hóa một phần khi đứng giữa e, i và phụ âm khác, hoặc đứng
cuối sau e, i. (Các từ bell, fill /bɛl; fɪl/ tiếng Anh ắt sẽ được dân Eldar phiên
âm là beol, fiol). Dạng vô thanh của âm này sẽ ghi bằng LH (thường phái