- Ông nhìn kìa. Ngài đấy!
- Ngài nào? - Tôi ngạc nhiên hỏi vì chẳng thấy gì.
- Thành hoàng làng Thượng! Ðứa bé ăn mày… - Ông M. không nói
hết câu, liền sụp xuống đất, vái lạy liên hồi. - Con xin ngài tha tội. Dạ, con
xin ngài tha tội. Con trót dại... Con chỉ đùa... Lúc ấy con còn nhỏ... Con xin
ngài tha tội! Con xin ngài…
- Ông làm sao thế? - Tôi định đỡ ông dậy nhưng ông không chịu. - Tôi
có thấy gì đâu! Ông vái lạy ai đấy?
Quả tôi không thấy gì thật. Nhưng ông M. vẫn tiếp tục cầu khẩn van
xin. Dẫu chẳng tin ma quỷ và không thuộc loại nhát gan, tôi vẫn thấy ớn
lạnh khắp người. Lát sau, ông M. im lặng ngồi rũ xuống sàn nhà, thở hổn
hển.
- Ngài đi rồi. Ði mà chẳng nói gì cả. Nghĩa là ngài không tha thứ cho
tôi. Trời ơi, tôi phải làm gì bây giờ?
Lúc này tôi mới lọ mọ lại gần chiếc công tắc điện để bật đèn. Ông M.
mặt cắt không còn hột máu. Ông ngồi yên trong tư thế ấy rất lâu, cuối cùng,
như để xác minh về sự hiện diện có thật của “ngài”, ông quay sang tôi, chìa
ra một viên bi thủy tinh bóng loáng dưới ánh đèn.
- Ngài để lại đấy.
***
Sau đó có việc, tôi đi công tác xa ba tháng. Lúc về thì được tin ông M.
đã chết. Người ta kể rằng ông hóa điên, đi đâu cũng ngửa tay xin ăn như
thằng ăn mày. Bị con cháu nhốt trong nhà và cả ở bệnh viện tâm thần, gặp
ai ông cũng xin. Có người cho hòn đá, ông rối rít cảm ơn, xúc động đến rơi
nước mắt. Rồi một hôm, ông khôn khéo trốn khỏi bệnh viện. Ðến tối thì có
người thấy ông nằm chết trong chiếc ao nhỏ cạnh Cầu Chui Gia Lâm. Vì ao
hầu như không có nước, chỉ toàn bùn, nên ông không chìm. Ấy thế mà ông
chết. Một điều lạ nữa là lúc chết ông đeo chiếc bị cói sát nách, tay giữ chặt
chiếc gậy trúc già trơn bóng, những thứ trước đấy chưa ai nhìn thấy bao
giờ.
- Một người nhân đức nhường ấy mà phải chết thế thì thật tội nghiệp. -
Ông tổ trưởng dân phố nơi ông M. sống bùi ngùi nói khi người ta liệm ông