cách biệt nhau, thật là nặng nề. Nếu cặp mắt kiêu hãnh của bà một lần nào
đó yêu cầu tôi, liệu tôi có từ chối được không?
- Không, tất nhiên là chị không thể từ chối. Chị chả nên băn khoăn về cái
trò chơi lố lăng bất ngờ ấy làm gì. Tôi không hề nghi ngờ là chị hát hay hơn
rất nhiều so với bất kỳ ai trong bọn họ, nhưng họ chẳng biết thế đâu. Phải
có một Vetma chính cống mới thức tỉnh được họ. Họ sẽ nhận thấy rằng
Chuỗi tràng hạt là một bản tình ca thật đẹp, sẽ vỗ tay tán thưởng chị không
quá mức, sẽ chỉ có thế thôi. Chị chẳng nên bực bội mà làm gì.
Jên có vẻ suy nghĩ rồi nói:
- Với lại, anh Đan này, tôi không thích phải hát trước một cử tọa loại này,
như phải trao tâm hồn mình cho họ. Tôi rùng mình khi nghe bản tình ca ấy,
tuy nhiên vào lúc cần thiết, tôi không thể không đem hết sức mình. Tôi sẽ
cố quên thính giả. Anh để tôi kể anh nghe một bài học mà bà Blanche đã
dạy tôi. Tôi hát bài hát Ấn độ của Bemberg, lời cầu nguyện say sưa của một
phụ nữ Ấn Độ với Brahma. Tôi bắt đầu: “Brahma! Thượng Đế của các tín
đồ!” Tôi hát câu ấy như tôi hát đồ rê mi. Brahma chẳng là gì với tôi cả. Thế
là bà Blanche quát lên một cách nghiêm nghị: “Dừng lại! A! Chị là người
Anh, Brahma là ông Thánh. Có thể không phải là Thánh của chị cũng như
của tôi, nhưng là Thánh của ai đó, Thánh của bài hát này. Hãy nghe đây. Bà
ngẩng đầu lên hát: “Brahma, Thượng Đế của các tín đồ, thầy của các thành
phố thánh!” Cả bộ mặt đẹp của bà ánh lên một niềm thành kính có thể
xuyên thẳng vào trái tim mọi người. Tôi không bao giờ quên được bài học
ấy. Từ đó tôi không bao giờ hát bài hát nào nhạt nhẽo nữa.
- Tốt lắm! - Đan nói. - Tôi rất thích lòng nhiệt tình trong tất cả các hình
thức nghệ thuật. Tôi không bao giờ muốn vẽ một bức chân dung mà tôi
không mến người tôi vẽ.