Tôi nhìn Brianna, con bé đang ngồi thẳng đơ, nét mặt đanh lại biểu lộ
sự phản đối. “Hãy cầm theo một cái gương nhỏ,” tôi nói. “Hãy ngắm thật kĩ
bức chân dung đó rồi nhìn vào trong gương. Không phải là y hệt, nhưng
con rất giống bà nội của mình đấy.”
Roger chăm chú nhìn Brianna như thể trước đây chưa bao giờ trông
thấy con bé. Cậu ta liếc qua liếc lại giữa hai chúng tôi, rồi như đã quyết
định điều gì đó, cậu ta đột ngột vươn thẳng vai, đứng dậy khỏi chỗ ngồi bên
cạnh con bé ở xô pha.
“Có vài thứ anh nghĩ em nên xem,” cậu ta nói thẳng, rồi nhanh chóng
đi qua chiếc bàn có nắp cuộn của mục sư và lôi ra từ một hốc bàn mớ bài
viết cắt từ báo đã ngả vàng được buộc bằng dây chun.
“Khi em đọc chúng, hãy xem kĩ ngày tháng,” cậu ta nói với Brianna,
rồi đưa mớ báo cho con bé. Sau đó, vẫn đứng, cậu ta quay sang nhìn tôi với
ánh mắt đăm chiêu, bình thản, mang đầy tính khách quan của một học giả.
Cậu ta chưa tin tưởng, nhưng đã có sự băn khoăn, lưỡng lự.
“Một nghìn bảy trăm bốn mươi ba,” cậu ta nói, như thể tự nhủ với
chính mình. Cậu ta lắc đầu, kinh ngạc tự hỏi. “Vậy mà cháu đã nghĩ đó là
một người đàn ông mà cô gặp ở đây vào năm 1945. Chúa ơi, cháu chưa bao
giờ nghĩ tới - chà, Chúa ơi, ai mà ngờ chứ?”
Tôi cũng ngạc nhiên. “Cháu đã biết? Về cha của Brianna?”
Cậu ta gật đầu ra hiệu về phía những bài báo trong tay Brianna. Con
bé vẫn chưa xem chúng, mà chỉ chằm chằm nhìn Roger, nửa bối rối, nửa
giận dữ. Tôi có thể thấy bão tố đang tụ lại trong đôi mắt con bé, và tôi nghĩ
Roger cũng có thể nhận thấy điều đó. Cậu ta vội vàng dời ánh mắt đi, quay
lại truy vấn tôi.
“Vậy những người đàn ông có tên trong danh sách mà cô đưa cho
cháu, bọn họ đã tham gia chiến đấu ở Culloden - cô đều biết họ ư?”
Tôi thở phào nhẹ nhõm. “Phải, cô biết họ.” Có tiếng sấm rền ì ùng ở
đằng đông, mưa rơi lộp bộp trên những ô cửa sổ trổ từ sàn phòng cho tới
trần nhà ở một mặt tường phòng làm việc. Brianna cúi đầu trên đám bài