bụng rộng bè bè, bốn chân cong cong. Bàn chân nó, ngón tõe ra và móng
màu đen, gõ lách cách ồn ào xuống sàn lát đá khi phi theo sau Mẹ
Hildegarde, cái mõm chúi xuống gần chạm vào những nếp gấp kéo lê của
bộ váy màu đen mà bà chủ nó mặc.
“Đó là một con chó à?” Tôi đã ngạc nhiên hỏi một người hộ lý khi lần
đầu tiên trông thấy Bouton, đang đi xuyên qua các khu vực trong nhà
thương theo sát gót bà chủ của nó.
Nó dừng lại một lát, nằm xoài ra trên sàn để chăm sóc cho cái đuôi xù
lông xoăn tít của mình, rồi biến mất vào khu bệnh kế bên.
“À,” anh ta nghi hoặc nói, “Mẹ Hildegarde nói nó là một con chó. Tôi
sẽ không muốn là người nói điều ngược lại đâu.”
Khi đã bắt đầu thân thiết hơn với các xơ, hộ lý và bác sĩ đến thăm
khám của nhà thương này, tôi nghe được rất nhiều ý kiến khác về Bouton,
từ sự khoan dung cho tới những điều mê tín. Không ai biết từ đâu mà Mẹ
Hildegarde có được nó, hay tại sao lại có. Nó đã là một thành viên trong đội
ngũ những người làm việc ở nhà thương này từ vài năm nay, với một cấp
bậc - mà theo ý kiến của Mẹ Hildegarde, một ý kiến duy nhất được tính -
còn xếp phía trên các xơ và ngang hàng với hầu hết các bác sĩ tới thăm
khám và những người bào chế thuốc.
Một số người nhắc đến nó với sự ác cảm nghi ngờ, số khác thì với vẻ
lịch sự hài hước. Một nhà phẫu thuật thường nhắc tới nó - bên ngoài tầm tai
nghe của Mẹ - là “đồ gặm nhấm ghê tởm”, “đồ thỏ bốc mùi”, và một người
chuyên làm giàn giáo lùn tịt, béo phệ công khai chào đón chú chó là “Ông
Giẻ Rửa Bát”. Các xơ coi nó là thứ gì đó giữa con vật mang lại phước lành
và vật tổ, trong khi vị tu sĩ cấp thấp từ nhà thờ lớn kế bên, người đã bị con
chó cắn vào chân khi đến làm lễ ban phước cho các bệnh nhân, bí mật kể
với tôi rằng theo ý kiến của anh ta thì Bouton là một trong những con quỷ
thấp kém, đáng ghê tởm hơn cả chó.
Bất chấp những lời nhận xét thiếu khách quan ấy, tôi nghĩ rằng có lẽ
anh ta đã đến sát với sự thật nhất. Sau vài tuần lễ quan sát cặp đôi này, tôi