vật gọi là đười ươi ở đó, một trong những vị thuyền trưởng đã mang nó từ
Borneo về. Em đã thấy nó bao giờ chưa?”
“Rồi,” tôi đáp, “sở thú ở London có một cặp đười ươi hồi trước chiến
tranh.”
“Vậy em sẽ biết trông anh như thế nào lúc có râu,” anh nói, mỉm cười
với tôi khi đã hoàn thành việc cạo râu với một đường cạo cẩn thận dưới
cằm. “Lôi thôi và xốc xếch. Khá giống Tử tước Marigny,” anh bổ sung,
“chỉ có điều nó màu đỏ.”
Dường như cái tên này gợi cho anh nhớ ra điều gì, anh quay trở lại chủ
đề đang thảo luận dở, lau sạch hết bọt còn sót lại trên mặt bằng khăn vải
lanh.
“Vậy nên anh cho rằng điều chúng ta phải làm bây giờ, Sassenach ạ,”
anh nói, “là sát sao để mắt tới những người Anh ở Paris.” Anh cầm lên bản
chép tay ở trên giường và lật giở các trang với vẻ trầm ngâm. “Nếu có bất
kỳ ai thực sự sẵn lòng hỗ trợ trên quy mô lớn thế này, anh nghĩ có lẽ bọn họ
sẽ cử một phái viên đến gặp Charles. Nếu anh định mạo hiểm năm mươi
nghìn bảng thì có lẽ anh muốn thấy mình sẽ kiếm về được thứ gì từ số tiền
đó, đúng không?”
“Phải, đúng thế,” tôi trả lời. “Và nhân thể nói tới những người Anh,
không biết Hoàng tử Điện hạ yêu nước định mua rượu brandy từ anh và
Jared, hay là cậu ta tình cờ hạ cố bảo trợ cho sự phục vụ của ông Silas
Hawkins nhỉ?”
“Ông Silas Hawkins, người quá mức hào hứng muốn biết về xu thế
chính trị ở Scotland ư?” Jamie lắc đầu với tôi vẻ thán phục. “Và tiện đây,
anh đã nghĩ mình cưới em là bởi vì em có một khuôn mặt xinh đẹp và một
vòng ba ngon lành. Nhưng không ngờ em cũng có đầu óc nữa!” Anh gọn
gàng né được cú bạt tai của tôi và ngoác miệng cười.
“Anh không biết, Sassenach ạ, nhưng anh sẽ biết trước khi ngày hôm
nay kết thúc.”