nhà kho ngột ngạt, còn những người chuội vải sẽ thu chân lại để tránh bị
bắn nước tiểu vào người và pha trò đùa giỡn.
“Nước tiểu nóng làm màu nhuộm bám chắc hơn,” một phụ nữ giải
thích khi tôi chớp chớp đôi mắt đang chảy nước trong lần đầu tiên vào
phòng chuội vải. Ban đầu, những người phụ nữ khác quan sát xem tôi có
chùn bước trước công việc không, nhưng chuội vải không khiến tôi bị sốc
sau những gì đã chứng kiến và thực hành ở Pháp trong cuộc chiến năm
1944 và lúc ở nhà thương năm 1744. Thời gian không khiến những sự thật
căn bản của cuộc đời thay đổi nhiều. Ngoài mùi khai bốc lên thì căn phòng
chuội vải là một nơi ấm áp, dễ chịu. Tại đó, cánh phụ nữ của Lallybroch tụ
tập, cười đùa giữa các súc vải và cùng ca hát trong lúc làm việc, hai bàn tay
họ di chuyển nhịp nhàng qua lại trên mặt bàn, hoặc đôi chân trần ngập sâu
trong tấm vải ướt bốc khói nóng khi họ ngồi trên sàn, thọc chân qua và
người bạn đối diện thọc chân lại.
Tôi gạt ký ức về công việc chuội vải ra sau khi nghe thấy tiếng giày
nặng nề nện trên hành lang, một luồng gió lạnh cùng không khí ẩm ướt ập
vào khi cửa mở. Jamie và Ian nói chuyện bằng tiếng Gaelic với thái độ
thoải mái không khoa trương, có thể thấy họ đang bàn bạc vấn đề đồng
ruộng.
“Năm sau, đồng ruộng sẽ cần rút bớt nước,” Jamie vừa nói vừa bước
qua cửa. Jenny trông thấy họ, liền đặt bức thư xuống và đi lấy mấy tấm
khăn sạch từ cái hòm trong hành lang.
“Lau khô người đi trước khi cả hai nhỏ nước lên thảm,” chị ra lệnh,
đưa mỗi người một cái khăn. “Và cởi đôi giày bẩn ra. Người đưa thư đã đến
rồi, Ian ạ - có một bức thư gửi cho anh từ một người đàn ông ở Perth, người
mà anh đã gửi thư về chuyện hạt giống khoai tây.”
“Ồ, vậy ư? Anh sẽ đọc nó sau, có cái gì để anh ăn trong lúc đọc
không?” Ian hỏi, vò khăn tắm trên đầu đến khi mái tóc nâu dày dặn dựng
lên lởm chởm. “Anh đói meo rồi, và từ chỗ anh đứng, anh cũng có thể nghe
thấy bụng Jamie đang sôi réo.”