chúng có cơ hội nhận ra bất cứ điều gì. Anh nghĩ chúng sẽ đưa em tới tòa
nhà Callendar ư?”
Anh gật đầu, lấy lại sự tự chủ. “Phải, anh nghĩ vậy. Nếu có thể, hãy cố
ở một mình gần cửa sổ, sau khi trời tối. Anh sẽ đến tìm em.”
Không còn thời gian nữa. Dougal đã trở lại, cẩn thận đóng cánh cửa
phía sau mình.
“Xong,” ông ta nói, nhìn từ tôi sang Jamie. “Sau khi giao cô ta cho
chúng, chúng ta sẽ được phép rời đi mà không bị cản trở. Không truy đuổi.
Chúng ta sẽ giữ con ngựa. Chúng ta sẽ cần nó cho Rupert, cô thấy đấy,”
ông ta nói với tôi, tỏ vẻ áy náy phần nào.
“Thế cũng được,” tôi bảo ông ta. Tôi nhìn cánh cửa có cái lỗ nhỏ màu
đen nơi viên đạn đã xuyên qua, cùng kích cỡ với cái lỗ ở bên sườn của
Rupert. Miệng tôi khô khốc và tôi khó nhọc nuốt khan. Tôi là một quả
trứng chim cu, sắp sửa bị đặt vào nhầm tổ. Ba người chúng tôi ngập ngừng
trước cánh cửa, miễn cưỡng thực hiện bước cuối cùng.
“Em n-nên đi rồi,” tôi nói, cố gắng kiểm soát giọng nói và tứ chi run
rẩy. “Bọn chúng sẽ thắc mắc điều gì đang kìm giữ chúng ta.”
Jamie nhắm mắt trong thoáng chốc, rồi gật đầu và bước về phía tôi.
“Anh nghĩ em nên bất tỉnh, Sassenach,” anh nói. “Có lẽ cách ấy sẽ dễ
dàng hơn.” Anh khom người, bế tôi lên, mang tôi đi qua cánh cửa Dougal
đang giữ mở.
Tim anh đập như trống dưới tai tôi. Tôi cảm thấy hai cánh tay anh run
run trong khi bế tôi. Sau cảm giác ngột ngạt của nhà thờ, với mùi mồ hôi,
máu, thuốc súng và phân ngựa, làn không khí tươi mát lạnh giá của buổi
sớm mai khiến tôi như nghẹt thở, và tôi rúc vào anh, rùng mình. Hai bàn
tay anh siết chặt đầu gối và vai tôi, như một lời hứa hẹn; anh sẽ không bao
giờ để tôi đi.
“Chúa ơi,” anh nói một lần, rất khẽ, và rồi chúng tôi tới chỗ chúng.
Sau những câu hỏi sắc bén, những câu trả lời lầm bầm, bàn tay anh miễn