sách. Ông không nhớ sự hài lòng khi được bày tỏ sự kính trọng với người
khác.
Anders không nhớ đã nhìn thấy một phụ nữ nhảy lầu tự tử từ tòa nhà
đối diện với nhà ông ngay sau ngày con gái ông chào đời. Ông không nhớ đã
gào lên “Lạy Chúa lòng lành!”. Ông không nhớ đã cố tình đâm ô tô của bố
ông vào một cái cây, hay bị ba cảnh sát đá vào mạng sườn trong một cuộc
biểu tình phản chiến, hay đã tự đánh thức mình dậy vì cười trong mơ. Ông
không nhớ thời điểm nào ông bắt đầu nhìn chồng sách trên bàn ông với sự
chán ngán và kinh sợ, hoặc khi ông trở nên giận dữ với những người đã viết
ra chúng. Ông không nhớ khi nào mọi thứ bắt đầu gợi ông nhớ đến những
thứ khác.
Đây là điều mà ông nhớ. Trời nóng. Sân bóng chày. Cỏ vàng, côn trùng
bay rì rì, ông dựa người vào một cái cây trong lúc bọn trẻ con trong xóm tụ
tập dần để chơi bóng. Ông đứng quan sát trong lúc các bạn ông tranh cãi về
việc Mantle
hay Mays
chơi hay hơn. Cả bọn đã tranh cãi chuyện này suốt
mùa hè, và nó đã trở thành nhàm chán với Anders: một sự áp đặt, giống như
cái nóng vậy.
Hai thằng bạn cuối cùng cũng tới, Coyle và người em họ của nó từ
Missisippi. Anders chưa bao giờ gặp em họ của Coyle và sẽ không bao giờ
gặp lại nó. Anders cũng chào nó giống như lũ bạn nhưng không để ý gì thêm
đến thằng bé, cho đến sau khi bọn chúng đã chia bên và ai đó hỏi em họ
thằng Coyle xem nó muốn ở vị trí nào. “Chạy biên phải”, thằng bé nói giọng
miền Nam. “Biên phải là biên phê nhứt
”. Anders quay đầu nhìn thằng bé.
Nó muốn nghe em họ thằng Coyle nhắc lại câu vừa nói, mặc dù nó biết tốt
nhất không nên hỏi. Những đứa khác sẽ nghĩ nó chơi xấu, ai lại đi trêu chọc
thằng bé về chuyện ăn nói. Nhưng mà không phải thế, hoàn toàn không phải
thế – Anders sung sướng và hạnh phúc lạ lùng chỉ vì hai cái từ cuối cùng,
hai từ hoàn toàn bất ngờ, và âm nhạc của chúng. Nó chạy như bay ra sân,
vừa chạy vừa tự nhẩm lại chúng trong đầu.
Viên đạn đã ở trong não; nó không thể bị trì hoãn mãi, mà cũng không
thể bị chặn đứng. Rút cục, nó cũng sẽ phải làm công việc của nó là bỏ hộp