Chúng tôi cứ thế lớn lên bên nhau suốt những mùa hè ngắn ngủi và
những mùa đông dài lê thê ở xứ sở cực Nam này. Chúng tôi cùng nhau học
được từ ông già Wenchulaf rằng cần phải đón nhận cuộc đời này với lòng
biết ơn. Bởi vậy, tôi và cậu nhóc Aukamañ, chúng tôi nhìn ông với tấm
lòng tôn kính khi ông lấy một ổ bánh mì và, trước khi cắt thành từng lát,
cho mình và Kinturray, ông cảm tạ ngünemapu vì thứ kofke này, thứ đồ ăn
được Đất mẹ ban tặng.
Suốt cả mùa hè, chúng tôi ra ngoài cùng ông để làm vui những dòng
sông con suối, những thác nước, để làm vui cánh rừng và những con đường
mòn, những đàn cá và chim muông, để làm vui tất cả những gì đang sống
bằng cách gọi tên chúng với lòng biết ơn, vì người Mapuche, những Con
người của Đất, biết rằng thiên nhiên luôn vui mừng với sự có mặt của họ và
tất cả những gì thiên nhiên đòi hỏi, ấy là có người gọi tên những món quà
kỳ diệu của mình bằng những từ ngữ đẹp đẽ, đầy tình thương yêu.
Mùa đông, chúng tôi cùng lắng nghe những cơn mưa, những trận mưa
đá trút xuống. Chúng tôi thường nghe thấy cả tiếng tuyết rơi lặng lẽ, hạnh
phúc vì có nơi trú ẩn ấm áp trong ruka và hạnh phúc vì ngọn lửa luôn được
thắp sáng. Còn vào những ngày mù sương, Wenchulaf thường bảo chúng
tôi rằng màn sương mù ấy là một lớp áo choàng kịp thời phủ lên mapu, mặt
đất, trong lúc mặt đất chuẩn bị những món quà để ban tặng cho chúng ta
ngay khi giá buốt rút về nơi trú ngụ của mình trên những đỉnh núi cao.
Tôi và Aukamañ, chúng tôi lớn lên cùng những lời của ông lão
Wenchulaf. Ông thường bảo chúng tôi rằng đến tháng Mười, longkon
kachilla küyen, tháng đơm bông và là tháng thứ năm trong mười ba tháng
theo lịch của người Mapuche, khi mặt trời sưởi ấm mọi vật và ngünemapu
ra lệnh cho những cành walle, những cây sồi cao chót vót, mọc ra đầy
những diweñes, loại nấm ngọt mà chúng tôi rất thích, ông dạy cho cậu nhóc
con cách ném một mẩu luma, mảnh gỗ cứng ấy đập vào những cành cây tít
trên cao mà không làm xây xát chúng và làm diweñes rơi xuống ào ào như