đó, tôi nghĩ chữ viết của mẹ chính là linh hồn mẹ, vì nó xuất phát
từ con người của mẹ. Thế là tôi quyết định cất hai tờ giấy đó làm
của riêng và thầm nói với bản thân sẽ giữ “linh hồn của mẹ” bên
mình suốt đời. Bất cứ khi nào nhớ mẹ, tôi đều đem hai tờ giấy
ấy ra đọc và ngắm nhìn mà tưởng tượng mẹ vẫn còn bên cạnh mình.
Tôi quý hai tờ giấy đó hơn tất cả những gì mà tôi đã và đang có.
Những năm đó cả nhà tôi bị đói triền miên. Đói đến nỗi có khi
ăn luôn vỏ củ mì. Nhà có vài cây mít, cây chuối, nhưng chưa bao giờ
chúng tôi được ăn trái chín. Chúng tôi hái cả mít non, chuối non vào
luộc ăn. Hết trái non, chúng tôi ăn cả thân chuối. Ba tôi bán tất cả
những gì có thể bán để mua gạo, kể cả tôn trên mái nhà. Sau đó ba
mua lá về lợp. Vì mái nhà ngang quá không phù hợp cho mái lá nên
khi mưa đến nước trút thẳng vào nhà. Điều này ba tôi không lường
trước được. Cả đàn con phải chạy tứ tán sang mái hiên nhà hàng xóm
trú mưa và ngủ qua đêm trong bóng tối, gió lạnh và muỗi.
Sáng hôm sau trở về, chúng tôi thấy căn nhà đã trở thành “bãi
chiến trường”. Mọi vật rơi vãi lung tung, những thứ bằng giấy
đều ướt thê thảm. Tôi hốt hoảng tìm hai tờ giấy báu vật của mình.
Cũng may, tôi đã bọc kỹ bằng bao nilông, cất trong hộc tủ quần áo
của tôi. Tuy nhiên, vài chỗ trên tờ giấy mà mẹ ghi công thức không
còn nguyên vẹn nữa. Tôi xót xa, khóc thút thít, chờ trời nắng đem ra
phơi. Tôi ngồi canh giữ “linh hồn mẹ” cho đến lúc khô. Trong lòng
tôi không muốn mẹ chết thêm một lần nữa.
Năm tháng dần trôi qua. Chúng tôi sống trong chuỗi ngày đói
khát, đòn roi và những biến cố trong gia đình. Để giải quyết cái
đói, anh Ba tôi đi bộ đội. Ba đem anh Tư cho người chú ở Vĩnh Long
nuôi, đem chị Năm đi ở đợ cho bà Chín bán xôi, và đem chị Sáu cho
cậu Út bán cà phê. Chỉ còn tôi là đứa què quặt không thể cho ai. Đàn