Những ngày Sài Gòn đấu tranh, tôi bị bắt, mẹ sợ hãi, gầy sút
đi. Tôi được thả ra, lại lao vào những xấp bài học dày cộm cho xong
cử nhân. Sài Gòn những ngày tháng tư, ba tôi lúc đó đang phụ trách
một công việc có thể dễ dàng ra đi trên những chuyến bay... Thế
nhưng mẹ tôi khóc, bởi nguyện ước của mẹ là gặp bà ngoại. Hơn hai
mươi năm, mẹ một thân một mình theo chồng di cư và mỏi mòn
trông đợi ngày này. Cuối cùng ba tôi quyết định: sống ở quê
hương vẫn tốt hơn.
Tôi nhận công tác dạy học ở Bình Chánh. Mỗi ngày lao đao đi về
trên những chuyến xe đầy than, bụi, chen chúc, ngạt thở. Mẹ chiên
cơm bỏ vào cái túi bé để “trưa con ăn kẻo về muộn lại đói”. Tôi chưa
đưa được đồng lương nào cho mẹ thì đã lấy chồng, sinh con. Dạy
xa, mẹ lại phải trông em bé cho tôi. Con tôi chỉ quen hơi bà ngoại.
Mỗi lần tôi đến thăm nó chẳng thèm nhìn. Tôi sinh đứa thứ hai,
mẹ vẫn vào ra bệnh viện, vẫn tất bật lo toan. Những đứa em tôi lần
lượt có gia đình, ra ở riêng, hết lo các con, mẹ lại lo cho ba tôi.
Những ngày tháng cuối cùng của ông, mắt mẹ mờ đi vì thiếu ngủ.
Tôi vô tình hay nói xẵng: “Mẹ không ăn uống làm sao có sức mà lo
cho ba...”. Tôi nào có hiểu mẹ không thể nuốt nổi miếng cơm vì suy
sụp...
Không biết có phải là điềm dữ: trước khi mẹ bị tai biến, tôi
đến thăm, mẹ lôi ra một đống ảnh chụp chúng tôi đủ kiểu mà mẹ đã
nâng niu cất giữ. Mẹ bảo tôi: “Đây là ảnh con, đây là ảnh đám cưới
con Nga... Đem về đi...”. Tôi chỉ nghe lơ đễnh và rồi cũng chẳng
cầm. Mấy hôm sau, mẹ gọi điện thoại bảo tôi: “Hè con có về Thái
Bình nhớ đem ảnh của bố và của ông, bà nội về để ở nhà thờ họ mới
xây”. Mẹ cứ bảo đứa em dâu chọn tấm ảnh nào của mẹ không cười
đem rửa và phóng lên bằng ảnh thờ của ba.