VAÁN ÑAÙP VEÀ SAÂN HAÄN
•
179
Nhưng nhiều lần, thói quen mua sắm bắt đầu xuất hiện. Vào
siêu thị mà ra về tay không thì thấy trống trải vô cùng, dù
không có tiền nhiều. Kiết sử này trói buộc cuộc đời theo sự
thỏa mãn chúng. Thoạt đầu, các kiết sử trói buộc xuất hiện
theo tính điều kiện và tự nguyện. Lâu dài sẽ hoạt dụng vô
điều kiện và khống chế tâm thức con người.
Tất cả thói quen trong đời đều tạo ra sự ràng buộc dù tốt
hay xấu, ít hay nhiều. Ngay cả thói quen tu tập cũng là sự
ràng buộc nhưng theo quỹ đạo mang lại an vui, hạnh phúc
với những giá trị đạo đức và tâm linh cho người huấn luyện
và nuôi dưỡng nó.
Tại các chùa Bắc tông Việt Nam, cứ 4 giờ là tụng thời
kinh công phu khuya, tụng kinh Lăng Nghiêm và thập chú.
10h30, cúng ngọ dâng Phật. 16h, cúng thí thực cô hồn. 19h
khóa tu Tịnh Độ. Thói quen tụng kinh này được lặp đi lặp
lại hàng ngày như phản xạ có điều kiện, nhằm ôn lại lời Phật
dạy để hành trì có kết quả hơn. Hôm nào không tụng kinh,
lòng cảm thấy thiếu vắng. Thiếu vắng là sự trói buộc tâm lý
nhưng là sự trói buộc mang tính bảo hộ. Các thói quen tụng
kinh, niệm Phật, ngồi thiền, ăn chay… là các trói buộc rất tốt,
giống cái phao đưa người từ bờ sông này qua bờ sông kia.
Nhờ những ràng buộc tốt đó hỗ trợ tích cực, hành giả được
an vui và hạnh phúc lâu dài.
Để dễ hình dung, tạm gọi điều thiện và pháp lành là
những trói buộc tích cực. Thuật ngữ chuyên môn trong Phật
giáo không gọi các điều lành là kiết sử, mà là giải thoát kiết
sử. Hành trì pháp môn, huấn luyện các giác quan là cách đặt
thói quen tích cực vào mục đích phục vụ lợi lạc. Thói quen
tích cực này có khả năng tháo mở các trói buộc chấp trước,
giúp con người thoát khỏi khổ đau, mặc cảm, hãnh diện, tự
hào. Ngược lại, các trói buộc phiền não từ dòng cảm xúc âm