sàn sạn; chẳng khác gì đưa tay miết trên đĩa gạo khô; chẳng khác gì tuyết.
Chỉ thấy hương vị chết chóc, hương vị bỏ hoang. Tôi là một căn phòng từng
chứng kiến nhiều và giờ không còn gì nữa, trừ phấn hoa loài cỏ dại mọc bên
cửa sổ, bị gió tạt vào như bụi trên sàn.
Điều tôi tin như sau.
Tôi tin Luke đang nằm sấp mặt trong một bụi cây, một lùm dương xỉ rối,
chùm lá kép đã khô từ năm ngoái lấn dưới những lá non vừa vuốt phẳng ra,
hoặc lùm độc cần cũng nên, dù mùa này chưa ra quả đỏ. Những gì còn lại từ
anh: tóc, xương, áo len ca rô, lục và đen, thắt lưng da, ủng. Tôi biết đích xác
anh đang mặc gì. Tôi còn thấy áo quần anh trong trí, sáng rõ như tờ in thạch
bản hay một trang quảng cáo màu từ họa báo cũ kỹ, dù không thấy mặt anh,
không rõ. Mặt anh đang mờ dần đi, có thể vì không phải lúc nào cũng đứng
yên: khuôn mặt có nhiều vẻ khác nhau, áo quần thì không thể.
Tôi cầu nguyện cho lỗ thủng đó, hoặc hai ba cái đó, không chỉ có một
tiếng súng, lại liên tiếp nhau, tôi cầu cho ít nhất một lỗ nằm gọn gàng,
nhanh chóng, triệt để xuyên sọ anh, qua nơi cất trữ mọi hình ảnh, để cho chỉ
có đúng một chớp nhoáng, dù là bóng tối hay cơn đau, hy vọng là chỉ ngấm
ngầm, như chữ thịch, chớp nhoáng và rồi yên lặng.
Tôi tin thế.
Tôi cũng tin rằng Luke đang ngồi thẳng, trong một căn chữ nhật đâu đó,
xi măng xám, trên mép hoặc rìa vật gì đó, ghế hoặc giường. Anh đang mặc
gì thì có Chúa biết, họ đã mặc gì cho anh. Cũng không phải có mình Chúa
biết, nên biết đâu có cách tìm hiểu được. Râu anh không cạo cả năm rồi, dù
tóc bị cắt ngắn, bất cứ lúc nào họ cao hứng, để chống chấy rận, họ bảo thế.
Cái này tôi cần sửa lại: nếu họ cắt tóc chống chấy, họ cũng sẽ cắt cả râu.
Theo logic.
Mặc dầu vậy, họ làm không khéo, tóc tai lờm xờm, gáy xước ngang dọc,
còn tệ hơn thế, trông anh già hơn đến chục tuổi, hai chục, lưng gập xuống
như lão già, mắt trũng sâu, những mạch máu tím li ti trên má vỡ ra, có một
vết sẹo, không, vết thương, nó vẫn chưa lành, màu uất kim hương, gần