cuống, dưới má trái anh nơi thịt bị rạch mới đây. Thân thể người dễ tổn
thương làm sao, dễ phế bỏ làm sao, toàn bộ chỉ là nước và chất hữu cơ,
chẳng hơn bao nhiêu một con sứa, chết khô trên bờ cát.
Anh đau buốt mỗi khi cử động cánh tay, mỗi khi cử động. Anh không
biết mình bị buộc tội gì. Khó khăn rồi đây. Phải có gì đó, phải có tội để
buộc. Nếu không sao họ lại giam anh, sao anh chưa chết? Anh phải biết một
điều họ muốn biết. Tôi không hình dung ra. Tôi không hình dung nổi anh
vẫn chưa nói ra cái điều gì đó đó. Tôi thì ắt đã nói rồi.
Anh ngập trong một cái mùi, mùi anh, mùi con thú giam hãm trong cái
chuồng bẩn thỉu. Tôi hình dung anh lúc nghỉ ngơi, bởi tôi không đủ sức
hình dung anh làm gì khác, cũng như không hình dung nổi bất cứ thứ gì
dưới xiềng đeo cổ anh, bên trên còng tay. Tôi không muốn tưởng tượng họ
đã làm gì cơ thể anh. Anh có giày không? Không, mà sàn thì ẩm ướt và lạnh
lẽo. Anh có biết tôi đang ở đây, còn sống, có biết tôi đang nghĩ về anh? Tôi
buộc phải tin vậy. Trong hoàn cảnh sa sút cần phải tin trăm thứ chuyện. Giờ
tôi tin cả vào thần giao cách cảm, dao động truyền qua ê te, nhảm nhí hơn
thế nữa. Trước kia chưa bao giờ.
Tôi cũng tin rằng rốt cuộc họ không bắt được hay đuổi kịp anh, rằng anh
đã thoát, tới được bờ, bơi qua sông, vượt biên giới, dạt được vào bờ bên kia,
một hòn đảo, răng lập cập; tìm được đường tới nông trang gần đó, được cho
vào, đầu tiên đầy ngờ vực, nhưng rồi khi hiểu chuyện, họ rất thân tình,
không phải loại sẽ nộp lại anh, có lẽ thuộc đạo Quaker, sẽ lén đưa anh vào
sâu nội địa, nhà này qua nhà khác, bà chủ pha cho anh cà phê nóng, đưa anh
quần áo của chồng. Tôi phác họa bộ quần áo. Yên lòng khi cho anh ăn mặc
ấm áp.
Anh liên lạc với những người kia, nhất định phải có lực lượng phản
kháng, một chính phủ lưu vong. Phải có ai ngoài đó, lo liệu mọi chuyện.
Tôi tin có lực lượng phản kháng như tin không có tối làm sao có sáng; hoặc
ngược lại, không có tối trừ khi có sáng. Phải có người phản kháng, không
thì lấy đâu ra từng ấy tội phạm, chiếu trên ti vi?