mảnh chai. Đàn bà uống đủ loại thuốc, đàn ông phun thuốc cho cây, bò ăn
cỏ, các nguồn nước giải ứ độc tố theo nhau chảy xuống sông. Chưa kể vài
nhà máy hạt nhân, dọc phay San Andreas, đã nổ tung trong mấy trận động
đất, do trời giáng chứ chẳng do ai, và một chủng giang mai đột biến không
loại kháng sinh nào trị nổi. Một số còn tự làm lấy, dùng chỉ ruột mèo thắt
cho tịt hay dùng hóa chất cho thành tật suốt đời. Sao lại có thể, dì Lydia nói:
trời sao lại có thể làm chuyện tày trời đến thế? Bầy Jezebel! Miệt thị món
quà chúa ban! Đôi tay vặn vẹo.
Các cô lãnh nguy hiểm lớn, dì Lydia bảo, nhưng là đạo quân xung kích,
các cô sẽ hành quân tuyến đầu, vào lãnh thổ hiểm nghèo. Nguy hiểm càng
cao vẻ vang càng lớn. Dì siết chặt đôi tay, tươi tắn rờ rỡ trước lòng gan dạ
mặt ngoài của chúng tôi. Chúng tôi cúi mặt nhìn bàn. Trải qua mọi chuyện
xong rồi đẻ ra một cái máy xắt: viễn cảnh chẳng đẹp đẽ gì. Chúng tôi không
biết đích xác số phận những đứa bé không xuôi lọt, những đứa bị tuyên bố
là Phế nhi. Nhưng chúng tôi biết chúng sẽ bị bỏ đi, đâu đó, triệt để.
Không chỉ có một nguyên nhân duy nhất, dì Lydia bảo. Dì đứng trước
lớp, trong bộ đồ kaki, tay cầm thước chỉ. Trước tấm bảng đen, thế chỗ từng
dành cho tấm bản đồ, có một biểu đồ thả xuống, cho thấy tỷ lệ sinh, đơn vị
phần nghìn, trong nhiều năm: một đường tuột dốc, đâm xuống quá trục
hoành là mức thay thế dân số, xuống nữa xuống nữa.
Tất nhiên, trong số đàn bà có người tin không còn tương lai nữa, họ nghĩ
thế giới sẽ nổ tung. Họ lấy đó làm cớ, dì Lydia bảo. Họ nói sinh con đẻ cái
chẳng nghĩa gì. Cánh mũi dì chun lại: tàn ác thế chứ. Đám ấy là lũ biếng
nhác, dì bảo. Quân đĩ lỗng.
Trên mặt bàn tôi ngồi có những tên tắt, khắc vào mặt gỗ, kèm ngày
tháng. Đôi lúc chúng đi theo cặp, giữa ôm chữ “yêu”. J.H. yêu B.P. 1954.
O.R. yêu L.T. Tôi nhìn chúng như chữ khắc trên vách hang đá, đọc thấy
trong sách đã lâu, hoặc vẽ bằng bồ hóng trộn mỡ ðộng vật. Chúng hình như