lũ, cố giữ thì được bên nọ núng đàng kia; nó tựa hươu chạy quạ kinh,
đánh lại thì thế đã chia lực đã yếu”. Quân Lê chiếm Luang
Prabang/Mang Long/Chiềng Vang, bắt/giết Tuyên úy sứ (chức Minh
phong) Đạo Ban/P’aya Sai Tiakap’at (1438-1479) và hai người con
(D.G.E. Hall, A History of South-East Asia, tr. 238-239; Sử quan
Nguyễn, Liệt truyện..., tập 2, tr. 603). Quân dừng lại ở sông Trường
Sa/Kim Sa. Tên sông được người nay chú là Irrawaddy e rằng không
phải, vì kinh đô Ava của Thượng Miến đương thời nằm ngay trên sông
đó. Trường/Kim Sa chắc là sông Saluen hợp với lời sử Việt “giáp biên
giới phía nam nước Miến Điện”. Cũng không phải là Mekong vì quân
đã vượt qua Luang Prabang. Sử quan Nguyễn đã ghi là sông Khung,
Toàn thư gọi là sông Tiết La, nơi Đoàn Nhữ Hài (1335) biết “trại nó ở
sát sông lớn Tiết La” nên toan tính “sau khi thắng trận bắt được tù
binh theo dòng xuôi xuống, đi qua Chân Lạp và các nước phiên khác...
diễu võ giương oai...”
Chiến thắng làm chấn động cả một vùng. Vũ Quỳnh vừa thi đỗ
(1478), chứng kiến chiến dịch, tha hồ khen vua: “Đánh Sơn Man mà
uy thanh vang dội phương Bắc, đánh Bồn Man mà đất đai mở rộng
phía tây”. Sử quan nói tướng Việt “nhận được thư của nước Miến
Điện, thắng trận trở về” nhưng ta biết rằng hẳn Miến phải điều binh ra
biên giới để cản. Vua Minh nghe đồn quân Việt toan tính lấn sang đất
“Bát Bách Tức Phụ” ở Vân Nam nên đưa thư sang khiển trách. Có lẽ
tiếng đồn đó là do việc Thánh Tông sai quân tiếp viện Lê Thọ Vực, dò
hỏi kết quả chiến dịch của các hướng hành quân, và các viên quan
khâm sai, tuần tiễu này đã mang chiếu chỉ đến tận “ngã ba sông miền
thượng lưu thuộc đất Lão Qua”, nghĩa là quân Lê không xa biên giới
với Minh là mấy - chắc là để đuổi theo người con út của Đạo Ban là
Phạ Nhã Trại đang trốn ở nước Bát Bách ấy. Cũng chắc Tène Kham
mà sử Lào cho là đã chống đánh và đuổi Việt ra khỏi đất nước, là Phạ
Nhã Trại vì vua Minh đã phong ông làm tuyên úy, có nghĩa là tiếp
quyền cha cai quản đất Lào, vua Việt không thể trái mệnh được (Quốc