Trần lúc đầu cũng phải ì ạch mới ngoi lên được trong tranh chấp.
Biến động tranh giành quyền lực ở Đại Việt được thấy rõ hơn qua
những ghi chép thô phác còn giữ ở quyển Đại Việt sử lược, đại loại kể
chuyện đánh nhau theo tính chất cá nhân, tập nhóm nhỏ chứng tỏ thực
trạng tranh chấp lúc đương thời, với những chi tiết lặt vặt khá tức cười
được lặp lại: trói người bằng dây thép, “trói bằng dây thép năm vòng”,
người bị trói vẫn mang cả vòng dây thép nhảy múa vui đùa! Loạn từ
những năm cuối thế kỷ XII, nhà Lý lúc đầu còn đủ khả năng huy động
những lực lượng lớn (như 12.000 quân đánh Sơn Lão năm 1185)
nhưng càng lúc càng đuối sức. Sự việc tỏ rõ trong trường hợp thanh
lọc mang dạng đầu voi đuôi chuột để lấy người về cho nhà nước năm
1198: “(Đàm) Dĩ Mông triệu tập tăng đồ trong xứ lại nơi kho thóc, để
vài chục người có danh tiếng làm tăng, số còn lại đánh dấu vào tay bắt
hoàn tục”. Lúc còn lớn quyền, Lý đi đánh nơi nào vẫn phải nhờ đến
các tập họp địa phương, cho nên khi sa sút thì các nhóm này lại nổi lên
như ong.
Nổi bật lúc đầu vì phải chịu đựng áp bức lớn, và khá thuần nhất
vì nguồn gốc xuất phát và sự kì thị kia, ngoài nhóm Hoa Lư uất ức vì
bị hạ giá còn có các nhóm cựu tù binh Chàm trong thế kỷ XI đến lúc
này vẫn giữ được tiếng nói, phong tục riêng. Đó là nhóm “giặc Đại
Hoàng” mà địa danh (hoặc nói gọn: “hoàng” kèm danh từ chung:
châu/sông/người-sống-ở) chỉ hai nơi: vùng Hoa Lư và khúc sông
Hồng bao gồm phủ Lỵ Nhân cùng với sông Đáy, chắc đã gây nên lúng
túng của sử gia xưa nay. Loạn Đại Hoàng của Phí Lang xuất phát
(1203) từ việc những người này bị bắt xây cửa Đại Thành (tất là của
thành Thăng Long), nghe nơi khác nổi dậy nên “trốn về làm phản”.
Con cháu tù binh thì phải xây thành trì cung điện, nên “Đại Hoàng” ở
đây là của vùng hành cung Lỵ Nhân, địa điểm lập ra để trông coi
nhóm tù binh Chàm ở vùng có chùa Bà Đanh - Đinh Xá. Loạn có
tướng giặc Phí Lang lúc đầu hàng (1205) dẫn theo đến hơn 170 “hào
trưởng” rồi hai năm sau lại nổi dậy tiếp. Nhưng sử quan ghi chiến trận