“Dạ, thưa bà?” Bryce đáp.
“Tránh xa con thỏ đó ra. Làm việc của mày đi. Tao không nói lần nữa đâu
đấy.”
“Vâng, thưa bà,” Bryce trả lời. Cậu bé quẹt tay ngang mũi. “Tôi sẽ quay lại
đón bạn,” cậu nói với Edward.
Chú thỏ trải qua ngày dài bị treo dưới đôi tai, nướng mình trong ánh nắng
nóng rực, quan sát bà già và Bryce nhổ cỏ xới vườn. Mỗi khi bà ta không
trông chừng, Bryce lại đưa tay lên vẫy.
Bọn chim đảo vòng vòng trên đầu Edward, cười nhạo chú.
Có cánh thì sẽ như thế nào nhỉ? Edward tự hỏi. Nếu có đôi cánh thì khi bị
văng ra khỏi mạn tàu, chú sẽ không chìm xuống đáy biển. Thay vào đó chú
sẽ bay vút lên, về phía bầu trời cao xanh lồng lộng. Và khi Lolly kéo chú ra
bãi rác, chú sẽ bay thoát khỏi đống phế thải, đuổi theo cô ta, đậu lên đầu,
bám chặt lấy bằng móng vuốt sắc nhọn. Và trên tàu, khi lão đàn ông đá
chú, Edward sẽ không bay thẳng xuống mặt đất; thay vào đó, chú sẽ bay
ngược lên và ngồi trên nóc toa tàu, cười vào mặt lão: quạ, quạ, quạ…
Khi chiều đã muộn, Bryce và bà già rời khỏi khu vườn. Bryce nháy mắt với
Edward khi bước ngang qua chú. Một con quạ đậu hờ trên vai Edward và
mổ mổ vào khuôn mặt bằng sứ của chú, nhắc đi nhắc lại với Edward bằng
mỗi cú mổ rằng chú không có cánh, chẳng đời nào chú có thể bay, chú
không thể tự di chuyển bản thân, theo bất cứ cách nào.
Bóng tối nhá nhem phủ lên khu vườn, và rồi đêm đen thực sự tới. Con chim
săn muỗi lải nhải hót đi hót lại. Biết do chi. Biết do chi. Đó là tiếng hót sầu
thảm nhất Edward từng được nghe. Và rồi một bản nhạc khác vang lên, đó
là tiếng kèn harmonica.
Bryce bước ra từ trong bóng tối.