đẫm, kỳ ảo, mênh mông màu mực nhạt. Trước cánh cửa sắt con có một tấm
biển sứ tây, đề mấy chữ: “Nha sĩ Triệu Tường Khánh”. Gió thổi mạnh đến
nỗi móc sắt trên tấm biển kêu lên kèn kẹt, phía sau tấm biển chỉ có bầu trời
kỳ ảo kia.
Liễu Nguyên dừng chân đứng ngắm hồi lâu, cảm thấy một nỗi sợ hãi lẫn
sau vẻ yên bình, đột nhiên rùng mình, nói với Lưu Tô: “Giờ thì em phải tin
rồi nhé: ‘Sinh tử ly biệt’, chúng ta đâu thể làm chủ được mình? Khi bom
đạn nổ, không may...” Lưu Tô giận nói: “Đến lúc này mà anh vẫn nói là
không làm chủ được à!” Liễu Nguyên cười đáp: “Anh không hề có ý rút lui.
Ý anh là...” Anh nhìn sắc mặt cô, cười nói: “Thôi không nói nữa, không nói
nữa!” Họ tiếp tục bước đi, Liễu Nguyên lại nói: “Ma xui quỷ khiến thế nào,
chúng mình lại yêu nhau thật!” Lưu Tô đáp: “Anh nói anh yêu em từ lâu rồi
mà.” Liễu Nguyên cười đáp: “Cái đó không tính. Hồi ấy cứ mải tán tỉnh, lấy
đâu ra thời gian mà yêu?”
Tin kết hôn đã được đăng lên báo, ông bà Từ chạy tới chúc mừng, song
vì hai ông bà chạy khỏi thành phố bị bao vây đến nơi an toàn, chỉ chăm
chăm lo cho mình, mặc sự sống chết của Lưu Tô, nên trong lòng cô không
mấy dễ chịu, cũng đành phải mỉm cười chào đón. Liễu Nguyên mở tiệc mời
bù. Không lâu sau, con đường giao thông Hồng Kông-Thượng Hải được
khôi phục, họ bèn trở về Thượng Hải.
Lưu Tô chỉ quay về Bạch công quán thêm một lần, sợ lắm kẻ nhiều lời
lại gây ra chuyện thị phi. Nhưng rồi vẫn không tránh khỏi phiền phức, mợ
Tư quyết định ly dị với cậu Tư, mọi người sau lưng đều chỉ trích Lưu Tô.
Lưu Tô ly hôn rồi tái giá, nhưng lại gặt hái được thành tựu kinh người đến
vậy, chẳng trách bọn người xung quanh đều học theo tấm gương của cô ta.
Lưu Tô ngồi dưới bóng đèn thắp hương muỗi. Nghĩ tới mợ Tư, cô mỉm
cười.
Liễu Nguyên giờ không bỡn cợt với cô nữa, anh dành những lời đùa cợt
nói cho phụ nữ khác nghe. Đây là hiện tượng đáng phải chúc mừng, điều đó