cửa hàng cho thuê băng đĩa, bán sách cho một cửa hàng ở khu Đông
Manhattan. Một trong những thời kỳ giàu có nhất đời tôi. Ở New York, tôi
đã gặp gỡ những người ghi dấu ấn trong tôi mãi mãi, và đã trải qua những
sự kiện có tính quyết định góp phần tạo nên phần còn lại của cuộc đời tôi.
Từ đó cho đến khi Théo ra đời, tôi quay trở lại Manhattan ít nhất hai lần
mỗi năm, với cảm giác hào hứng vẫn còn nguyên vẹn.
Tôi tranh thủ mạng Wi-Fi trên máy bay để trao đổi email với bộ phận
lễ tân của Bridge Club tại khách sạn TriBeCa nơi tôi luôn lưu lại từ mười
năm nay, và mặc dù mang cái tên đó
nhưng nơi này lại chẳng chứa chấp
bất cứ hội chơi bài nào. Họ hết lời ca ngợi dịch vụ trông trẻ với những nhân
viên được tuyển chọn kỹ càng, và tôi đã thuê một cô để chăm sóc con trai
tôi những lúc tôi phải đi điều tra. Tôi cũng đã thuê một chiếc xe đẩy và lập
danh sách những thứ đồ cần mua sắm mà khách sạn đề nghị thực hiện giúp
tôi: hai gói bỉm loại 12-15 kg, giấy ướt, bông, sữa tắm gội trẻ em và cả
đống hộp đồ ăn giặm.
“Có vẻ con trai anh không kín tiếng cho lắm!” người phụ trách khoang
hành khách đã buông ra câu đó với tôi vào lúc xuống máy bay. Đúng là một
câu nói hoa mỹ: Théo đúng là không thể chịu nổi và khiến tôi phải xấu hổ.
Mệt mỏi, phấn khích, bé đã gây ồn ào trong suốt chuyến bay, không ngồi
yên lấy một giây, quây rầy tiếp viên và các hành khách khác trong khoang
hạng thương gia. Bé chỉ ngủ thiếp đi trong chiếc taxi đưa chúng tôi đến
Bridge Club.
Đến khách sạn, tôi không còn thời gian để dỡ đồ. Tôi thay quần áo cho
Théo và cho bé ngủ, rồi gửi gắm bé cho cô trông trẻ Marieke, một cô gái
người Đức mà hẳn bà tôi sẽ đánh giá là “quá xinh đẹp nên khó mà là người
đứng đắn”.
Mười bảy giờ. Ngụp lặn trong giờ cao điểm của thành phố. Đường
phố, tiếng ồn, không khí sôi động. Cuộc chiến không khoan nhượng để bắt
được một chiếc taxi. Vào giờ này, đi tàu điện ngầm còn nhanh hơn. Đến
phố Chambers, tôi theo tuyến tàu điện ngầm A đi về hướng Bắc, và chưa
đầy nửa giờ sau, tôi đã leo lên cầu thang ở ga trên phố 125.