Tôi biết một địa chỉ ở khu này. Một tiệm sò ở góc giao giữa đường
Cornelia và Bleecker, nơi anh bạn Arthur Costello, một nhà văn người New
York có tác phẩm được xuất bản tại cùng nhà xuất bản ở Pháp với tôi, đã
dẫn tôi đến nhiều lần.
Caradec theo gót tôi và để tôi dẫn đến tận một con phố nhỏ nằm lọt
giữa những tòa chung cư xây bằng gạch đỏ, hai bên là hai hàng cây rực rỡ
sắc màu.
— Hello guys, join us anyivhere ai the bar!
Mỗi lần đẩy cánh cửa của Oyster Bar, tôi lại nhẹ người vì không phải
gặp khách du lịch ở đó.
— Chỗ này dễ chịu đấy, Marc vừa nhận xét vừa ngồi xuống một trong
những chiếc ghế đẩu đặt quanh quầy bar.
— Tôi biết là ông sẽ thích mà.
Tại Oyster Bar, thời gian ngưng đọng lại đâu đó ở khoảng đầu những
năm 1960. Ta đang ngồi trong một nhà hàng trên bến câu cá thuộc New
England, nơi nữ nhân viên phục vụ gọi bạn là “darling”
khi mang món
khai vị là bánh quy giòn ra. Nơi chiếc radio đang phát những bài hát của
Richie Valens, Johnny Mathis và Chubby Checker. Nơi ông chủ kẹp bút chì
sau vành tai. Nơi dâu tây có mùi vị của dâu tây. Nơi người ta không biết
đến cả sự tồn tại của Internet và Kim Kardashian.
Chúng tôi gọi một khay “Đặc biệt” kèm chai vang trắng Sancerre. Giờ
đã muộn, nhưng không ngăn được chúng tôi chạm cốc, và trong khi nâng
cốc, một cảm giác biết ơn mãnh liệt xâm chiếm tôi. Từ khi tôi quen ông,
Caradec luôn có mặt vì tôi và vì con trai tôi. Và cả hôm nay cũng thế, ông
đã không ngần ngại lên máy bay và theo tôi đến tận New York. Vì tôi, ông
đã phải nổ súng và rơi vào tình thế buộc phải hạ sát một người.
Cũng phải sáng suốt thừa nhận điều này: ngoại trừ Claire và ông, tôi
không còn ai trên đời này. Tôi chưa từng có điểm gì chung với em gái; mẹ
tôi từ giờ về sau sẽ sống ở Tây Ban Nha, và hình như mới chỉ đến thăm
cháu nội được hai lần kể từ khi bé ra đời; còn bố tôi, ông vẫn sống ở miền
Nam nước Pháp, nhưng đã làm lại cuộc đời một lần nữa với một cô gái hai