chí còn hỏi xem tôi có cần mang gì đến bệnh viện không. Chẳng có gì cả, vì
tôi đã vào viện nhiều lần đến nỗi quá quen với việc chất đầy một túi xách
(quần áo ngủ, giấy vệ sinh, sách, vân vân) để chuẩn bị cho cuộc phẫu thuật
dù là nhỏ nhất.
Khi những việc nhỏ nhặt này được xếp đặt đâu vào đấy, tôi chẳng còn
việc gì khác ngoài nằm yên trên giường (mà, tiện đây nói luôn, không còn
tạo cho tôi cảm giác là lồng ngực của bộ xương nữa) và chờ cho lành hẳn.
Mỗi buổi tối, Gregor lại mang cho tôi những cuốn sách mới, và có một lần
ông ta thậm chí còn lén mang một ít bia vào. Bởi vì, như ông ta giải thích
với một cái nháy mắt tinh nghịch, ông ta có hơi hướng nổi loạn một chút.
Tôi bảo đảm với ông ta là ông ta rất nổi loạn ấy chứ.
Sau một tuần thì tôi cũng được ra viện, và Gregor xin nghỉ một giờ để
chở tôi về nhà. Khi chúng tôi về đến pháo đài, tất cả đều chìm trong yên
lặng. Bình thường việc này chẳng có vấn đề gì, có thể Marianne Engel đã đi
dạo, hoặc chuẩn bị mua thêm một ít đá mới - nhưng tôi có cảm giác chẳng
lành. Tôi không thèm kiểm tra phòng ngủ của cô nữa; tôi chạy thẳng xuống
tầng hầm, với Gregor theo sau.
Dù đã ở với cô hơn một năm, tôi vẫn chưa chuẩn bị tinh thần để nhìn
thấy cảnh tượng trước mắt. Đầu tiên, có ba bức tượng mới hoàn thành: số 8,
7 và 6. Cứ xét đến việc tôi mới chỉ đi có một tuần mà bình thường phải mất
hơn bảy mươi hai tiếng đồng hồ cô mới tạc hoàn chỉnh một bức tượng, bài
toán số học đã cho ra kết quả là cô có lẽ không chỉ đã làm việc không
ngừng nghỉ mà còn làm việc cuồng nhiệt hơn bình thường rất nhiều. Đây là
điều tôi gần như không thể tin được.
Marianne Engel không làm việc cũng chẳng đang ngủ trên một phiến đá
mới. Cô đang ngồi giữa ba bức tượng quái vật mới của mình, bụi đá phủ
hoàn toàn lấy người cô, khắc họa đậm nét từng chiếc xương khẳng khiu trên
cơ thể. Cô đã gầy trơ xương khi tôi rời nhà đến bệnh viện nhưng giờ đây cô