Trong suốt tháng trước, bức tượng của tôi đã đứng đó, phủ một tấm vải
trắng như bức biếm họa một con ma, trong góc xưởng của cô. Lúc đầu tôi
hơi thất vọng vì nghĩ cô đã chán chẳng động đến nó, nhưng khi thấy cô
càng lúc càng gầy đi thì tôi lại hạnh phúc vì đã không phải ngồi làm mẫu
cho cô trong khi cô cứ héo dần héo mòn.
Tôi chỉ phải nghĩ một chút trước khi tình nguyện tiếp tục ngồi làm mẫu
cho cô. Dù vẫn mong cô sẽ từ bỏ hết ý định tạc bức tượng cuối cùng, thì ít
nhất tôi cũng có thể để mắt tới cô khi cô làm việc. Việc này cũng có cái lợi,
nếu những lần ngồi mẫu trước đây của tôi có biểu đạt gì, cô sẽ tiến hành tạc
tượng với một tốc độ thoải mái hơn rất nhiều. Tôi không phải một con quái
vật hoảng sợ gào thét đòi thoát ra khỏi trận tuyết lở của thời gian và đá bụi;
tôi sẽ cho cô thời gian rộng rãi hết mức, chẳng bao giờ thúc giục cả.
Tính tò mò đã giục tôi hỏi Marianne Engel xem liệu khi chúng tôi bắt đầu
tạc bức tượng đó vài tháng trước, cô có biết đó sẽ là tác phẩm cuối cùng của
mình không. Rồi, cô trả lời, cô đã biết thế rồi. Thế là tôi lại hỏi thêm, sao cô
lại mất công tạc nó vào lúc ấy, trong khi biết rằng mình sẽ phải tạm để nó
sang một bên?
“Đó là một phần trong việc chuẩn bị cho anh,” cô trả lời. “Tiền trảm hậu
tấu, tôi nghĩ anh khó có thể từ chối. Có vẻ là tôi đã đúng.”
Chúng tôi bắt đầu vào chính ngày hôm đó. Trần trụi đứng trước mặt cô
luôn làm tôi có cảm giác kỳ cục, nhưng giờ tôi đã cảm thấy ít xấu hổ hơn
khi hiện tại cô, cũng như tôi, đã không còn hoàn hảo về mặt thể chất nữa.
Trong khi sự gầy gò ốm yếu của cô còn lâu mới kinh khủng bằng những vết
thương của tôi, nó ít nhất cũng mang chúng tôi lại gần nhau hơn trong nỗi
bất hạnh của mình.
* * *