khói và tôi không biết mình có thể đi được đến nơi nếu không có sự ấm áp
đầy hứa hẹn kia không. Tôi gõ cửa vài lần cho tới khi một bà lão nông dân
mở cửa và mắt ấy trợn trừng vì hoảng sợ khi nhìn thấy tôi. Đối với bà, tôi rõ
ràng là thây ma đến nhà.
Khi nhận ra tôi vẫn chưa chết, bà gọi chồng mình và bắt đầu cởi chỗ quần
áo đông cứng của tôi ra. Ông cho tôi ăn xúp, trong khi bà quấn tôi trong
hàng đống chăn và xoa bóp chân tay tôi để giúp máu dễ tuần hoàn. Khi tôi
đã hồi phục được kha khá, chúng tôi bắt đầu lắp ghép các mảnh sự kiện đã
xảy ra. Tôi đã bị cuốn đi vài dặm trên sông và kẹt lại tại một vùng nước
chưa bị đóng băng. Tình cờ một người nông dân già đi qua và kéo tôi lên.
Hai mắt tôi mở trừng trừng, tóc tôi cứng đơ dựng ngược cả lên, và thân thể
tôi thì không có lấy một dấu hiệu sự sống nào.
Người nông dân nghĩ rằng tất cả mọi người đều xứng đáng được an táng
tử tế, và đó là lý do ông kéo tôi ra khỏi dòng sông. Mặt đất quá cứng để có
thể xới ra làm mộ được, thế là với quá ít sự lựa chọn, ông đã quyết định để
tôi lại phía sau cái lán nhà họ và chôn tôi chỗ gần suối. Ông không thể
mang một xác chết vào nhà mình, dĩ nhiên rồi, nhưng vì lý do thực tế hơn là
mê tín. Xác tôi rồi sẽ phân hủy và bốc mùi. Chúng tôi đoán, tất cả mọi
người đều nghĩ vậy, chắc do nước quá lạnh nên tôi trông như đã chết rồi.
Những chuyện như thế vẫn thường xảy ra; có rất nhiều câu chuyện kể về
những người bị chìm trong nước và mãi sau khi ai cũng tưởng họ chết rồi
thì họ đột ngột sống lại.
Tôi ở lại với họ vài ngày, nhưng không bao giờ nói cho họ biết tại sao tôi
lại ngã xuống sông. Tôi chỉ nói với họ rằng tôi đang đi dạo thì băng vỡ ra
dưới chân tôi. Chẳng việc gì phải kể lại câu chuyện về Engelthal, hay về
những tên lính đánh thuê, hay về Ba Vị Chủ Nhân của tôi. Chỉ riêng việc tôi
còn sống sót đã khó tin lắm rồi.