đó về tâm thần phân liệt, khủng hoảng tinh thần, rối loạn lưỡng cực, hay cái
gì đại loại chứ?”
“Đó không phải lĩnh vực chuyên môn của tôi,” bà trả lời. “Hơn nữa, anh
nên đọc các sách nói về bỏng ấy.”
Nan đã mang hàng chồng sách về hồi phục sau bỏng đến để trên chiếc tủ
đầu giường mà tôi chả sờ tới lần nào. Tôi không đọc chúng vì chúng là thứ
sách tôi nên đọc. Chúng tôi thỏa thuận: cứ mỗi cuốn sách tâm lý bà mang
đến, tôi sẽ đọc một trong những cuốn sách về bỏng. Nan xem đây là thắng
lợi và kiên quyết đòi tôi phải đọc một trong những cuốn của bà trước.
Sau khi tôi đã đọc xong một cuốn sách về bỏng, Gregor đến phòng tôi, lại
mặc cái quần nhung tăm cứ cọ vào hai đùi, mang trên tay một cuốn sách
tâm lý học. Ông ta trao nó cho tôi và nói rằng bác sĩ Edwards đã nhờ ông ta
mang đến, từ bộ sưu tập riêng trong văn phòng ông ta.
“Chỗ này không làm anh phát điên đấy chứ, hả?” Cái cách ông ta cười
khùng khục một mình khiến tôi tự hỏi không biết có phải ông ta đã nghĩ về
chuyện đó suốt từ khoa tâm thần đến đây không. Khi tôi hỏi ông ta liệu một
bác sĩ tâm thần có được phép gọi bệnh nhân của mình là thằng điên không,
ông ta lau vội một giọt mồ hôi rỏ ra từ chân mày bằng chiếc khăn tay kẻ ca
rô, và chẳng trả lời gì cả. Thay vì thế, ông ta hỏi tôi tại sao lại hứng thú với
tâm thần phân liệt và khủng hoảng tinh thần đến vậy.
“Không phải việc của ông,” tôi nói.
Gregor mở miệng như thể định nói gì nữa, nhưng ông ta lại chỉ mỉm cười
và gõ một phát lên đầu gargoyle nhỏ của tôi. “Tôi thích cái này,” ông ta nói,
trước khi lạch bạch chạy ra khỏi phòng trên đôi giày moca.