đang đi tới trung tâm của gian giữa giáo đường. Mái tóc đen chải thẳng ra
sau, một vầng trán cao, cô ta khoác một áo mưa có dây thắt lưng bằng loại
vải tổng hợp. Tiếng chân cô ta bước đi cũng như những đồng tiền của
Keller vang vọng trong ngôi nhà thờ rộng lớn tĩnh lặng. Đến trước bàn thờ
chính, cô ta quỳ xuống và thong thả làm dấu thánh giá từ trán xuống trái
tim rồi từ vai trái sang vai phải. Sau đó, cô ta ngồi ở phía đối diện với gian
giữa và đăm đăm nhìn thẳng về phía trước.
“Cách duy nhất để chúng ta có thể xác định cô gái có ở đó hay
không,” một lát sau Gabriel nói, “là phải canh chừng biệt thự đó thêm ít lâu
nữa. Và thật vô phương để chúng ta làm chuyện đó nếu không có một chốt
quan sát cố định thích hợp.”
Keller nhăn mặt tỏ vẻ không đồng tình. “Nói giống như một điệp viên
nội gián thực thụ.”
“Điều đó có hàm ý gì?”
“Nghĩa là ông và lũ tiểu yêu của ông chẳng thể nào hoạt động trên một
trận địa nếu không có các nhà an toàn và các khách sạn năm sao.”
“Người Do Thái không cắm trại, Keller à. Lần cuối cùng đi cắm trại,
họ đã trải qua bốn mươi năm lang thang trong sa mạc.”
“Moses hẳn đã tìm ra miền Đất Hứa nhanh chóng hơn rất nhiều giá
như ông có hai chàng trai từ Trung đoàn hướng dẫn cho ông.”
Gabriel ngó người đàn bà khoác áo mưa; cô ta vẫn đăm đăm nhìn
thẳng tới trước, khuôn mặt đờ đẫn. Rồi ông nhìn gã người Anh và hỏi,
“Chúng ta sẽ làm sao đây?”
“Không phải chúng ta,” Keller trả lời. “Tôi sẽ làm việc ấy một mình
theo cách thức đã quen thuộc ở Bắc Ireland. Một người trong một chỗ ẩn
nấp với một cặp ống nhòm và một túi đựng chất thải của anh ta. Trường
phái cũ ấy mà.”
“Và chuyện gì sẽ xảy ra nếu một chủ trại phát hiện ra anh khi ông ta
đang làm việc ở một trong những cánh đồng đó?”