nhau, cần phải xử sự thận trọng và chín chắn và dù thế nào đi chăng nữa
cũng không được tỏ ra mình phải lòng anh và không thể sống thiếu anh
được. Mặt khác, tôi chẳng nên đau khổ trở về nhà vì lẽ là, sau khi xưng tội,
lòng tôi bồn chồn lo lắng và tôi cần gặp Giacomo để được yên tâm. Tôi đưa
mắt nhìn quầy kính cạnh chỗ tôi đang đứng. Đây là một quầy thuộc cửa
hàng bán cravat và áo sơ mi nam, chợt tôi nhớ rằng mình đã từng hứa mua
tặng anh chiếc cravat mới. Kẻ đang yêu chẳng bao giờ suy nghĩ chín chắn
cả, còn tôi quyết định rằng món quà tặng sẽ là lý do tuyệt vời để tôi đến với
anh, trong lúc đó chính tôi lại không hiểu rằng chính nó là bằng chứng nói
lên nỗi bẽ bàng và tuyệt vọng trong tình cảm của tôi đối với Giacomo. Tôi
vào cửa hàng và sau khi lựa chọn hàng chục cái mới đồng ý mua một chiếc
cravat xám có vạch đỏ đẹp nhất và đắt tiền nhất. Với một sự lịch thiệp quấy
rầy mang tính chất nghề nghiệp mà các nhà buôn thường sử dụng để tuồn
hàng của mình, người bán hàng hỏi xem chiếc cravat này dành cho người
có mái tóc vàng hay mái tóc đen.
- Dành cho người có mái tóc đen – Tôi khẽ đáp và cảm thấy mình đang nói
những lời này với một giọng dịu dàng và xúc động. Tôi thậm chí còn đỏ
mặt khi nghĩ rằng mình đã bộc lộ với người bán hàng tình cảm của mình.
Bà góa Medolaghi sống ở tầng tư một ngôi nhà cũ và ảm đạm, có cửa sổ
trông ra bờ sông Tiber. Tôi leo tám nhịp cầu thang và không chờ thở để lấy
hơi, tôi bấm chuông. Cửa gần như mở ngay sau tiếng chuông và Giacomo
xuất hiện nơi ngưỡng cửa.
- À, à, em đấy à – Anh sửng sốt hỏi.
Chắc anh đang đợi ai.
- Em vào được không?
- Được... em vào đi.
Anh dẫn tôi qua một hành lang tối, rồi vào phòng khách. Nơi đây cũng
tranh tối tranh sáng: ánh sáng lọt vào đây qua các tấm kính tròn, dày màu
đỏ, thường thấy ở trong các nhà thờ. Trong phòng cỏ bày một bộ đồ mun
khảm xà cừ. Giữa phòng thấy kê một chiếc bàn hình bầu dục trên để chiếc
bình cổ và các cốc uống rượu mùi bằng pha lê xanh lơ. Sàn trải mấy tấm
thảm, thậm chí còn có cả một bộ da gấu trắng, cho dù đã gần bợt hết lông.