biết chừng đã thị sát đến tận biên cương rồi. Người không thấy đâu, sao lại
hạ lệnh cho lão tử điều tra? Lão tử đi đâu mà điều tra chứ? Mẹ kiếp!”
Sai dịch phụ trách truyền tin đã ôm đầu chuồn ra ngoài từ lâu, chỉ còn
lại sư gia Đỗ Kinh đang cau mày nhìn Phiên Lộc giờ như con hổ bị đá đít,
đi đi lại lại trong phòng.
Nộ khí của Thủ thành đại nhân hôm nay thật không nhỏ.
“Đại nhân hãy bớt cơn thịnh nộ, tuy công văn này thật vô lý, nhưng là
ý quan trên, chúng ta không thể mặc kệ, việc này…”
“Ta biết là không thể mặc kệ”, Phiên Lộc gầm gừ một hồi, nộ khí cũng
đã giảm bớt phần nào, cảm giác nhẹ nhàng hơn, khuôn mặt nở nụ cười,
ngón chân đùa với tờ công văn trên đất, rồi bỗng đá vèo nó vào góc tường.
Phiên Lộc chậm rãi ngồi xuống ghế, còn gác cả chân lên bàn. “Điều
tra thì điều tra. Sư gia, hãy dán cáo thị khắp thành Thả Nhu cho ta, vẽ hai
con… À, vẽ hai vị đại nhân, nhớ là phải vẽ giống một chút, sau đó viết
là…”, Phiên Lộc ngậm cán bút, giọng không còn rõ ràng, “Có hai vị quan
mất tích, Thủ thành đại nhân phụng mệnh tìm kiếm. Sống phải thấy người,
chết phải thấy xác. Tìm được người, thưởng một trăm lạng bạc, tìm được
xác, thưởng hai trăm lạng bạc. Cứ thế đi”.
Nghe giọng điệu ấy, biết rõ trong lòng Phiên Lộc đang âu sầu vì hai vị
đại nhân kia, nhưng Đỗ Kinh không thể biết có phải Thủ thành đại nhân
đang đùa hay không, chỉ biết dở khóc dở cười thưa: “Đại nhân, một, hai
trăm lạng bạc, e là hơi ít, theo tiểu nhân, vẫn nên tăng thêm một chút. Vả
lại, câu nếu tìm thấy xác, tốt nhất đừng cho vào…”.
“Được rồi, Sư gia cứ làm đi”, Phiên Lộc xua tay, ngáp dài, “Ta đã xử
lý xong công vụ ngày hôm nay, Sư gia mau đi dán cáo thị, Thủ thành đại
nhân phải đi nghỉ đây”.