dân thường, rất nhiều người đã chủ động đến giúp sức, họ không những
mang lương thực tới mà còn lo cả chuyện bếp núc, không thu tiền công. Có
người còn đưa đến những cuốn sách quý trong nhà. Đông Chước không hay
nói, nhưng làm việc rất cẩn thận, sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy”.
Sở Bắc Tiệp nói: “Sính Đình rất lo cho Đông Chước, ta đang nghĩ xem
sau khi việc của vương phủ Kính An kết thúc, có nên ra một đạo chỉ, để
Đông Chước đến hoàng cung một chuyến, gặp mặt Sính Đình”.
Nhược Hàn chau mày suy nghĩ một lúc: “Đông Chước có gửi một bản
tấu trình, nói là muốn ở lại vương phủ Kính An, trông coi hương hồn cho
Kính An vương, Kính An vương phi và cả Hà Hiệp. Hơn nữa, sau khi
vương phủ Kính An sửa xong, thư viện mở cửa, Đông Chước muốn ở lại
dạy học. Có điều nếu hạ chỉ, đương nhiên Đông Chước vẫn sẽ đến”.
Sở Bắc Tiệp lắc đầu: “Không cần miễn cưỡng, cứ để Đông Chước ở
đó, giao cho Đông Chước việc của vương phủ Kính An, Sính Đình cũng
yên tâm”.
Rượu say tiệc tàn, Sở Bắc Tiệp đưa Trường Tiếu về. Dương Phượng
tiễn họ ra ngoài, hỏi: “Sính Đình đã đỡ chút nào chưa”.
Sắc mặt Sở Bắc Tiệp có chút u ám: “Tâm bệnh khó chữa, chắc phải
dần dần”.
Dương Phượng thở dài: “Sính Đình và Hà Hiệp lớn lên bên nhau từ
nhỏ, nên không trách khỏi đau lòng”.
Sở Bắc Tiệp cũng hiểu: “Yên tâm đi, ta sẽ chăm sóc cho Sính Đình”.
Dắt theo Trường Tiếu về cung, phụ tử hai người đã nhìn thấy Sính
Đình từ xa. Nữ nhân thân yêu nhất của Sở Bắc Tiệp đang đứng bên hành
lang, vẻ khoan thai trang nhã, đôi mắt trong veo nhìn mặt hồ không xa, như
thể nhìn thấu cả đáy hồ, dù nó u ám đến đâu.