kháng chiến đâu có ít. Trần Văn Giầu, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi
trong khu Bốn. Trần Thanh Mại, Ngô Quân Miện, Văn Tân, Trần Văn
Giáp, Nguyễn Lương Bích, Đinh Gia Khánh... ở miền Bắc. Đâu đó trong
các khu rừng, nhà dân, hàng ngày chạy ăn, chạy máy bay, họ vẫn đọc, viết.
Ban Sử Địa Văn ra đời, họ vô cùng phấn khởi vì coi như đã có một ngôi
nhà chung, có chỗ để gửi tác phẩm hằng dày công mài miệt tới. Và tên tuổi
người đứng đầu cái cơ quan đó chả phải xa lạ với họ. Từ Khu học xá Trung
ương bên Nam Ninh, Trung Quốc, các bài nghiên cứu viết dưới ánh sáng
đèn điện cũng được gửi về.
Cơ quan toàn ông già, Liệu nghĩ đến những người trẻ tuổi hơn để làm
nguồn cho giai đoạn sau. Lần đầu gặp Văn Tạo, do một chỗ khác giới thiệu,
ông đưa chàng thanh niên một bản tin tiếng Pháp, một đoạn văn bạch thoại
để dịch thử. Rồi bảo “phải học thêm bạch thoại đi, công việc không phải
chỉ toàn chữ Nho đâu”. Cái câu lớp người sau luôn luôn được “dạy bảo” là
“có sử đã rồi mới thành dân tộc được”.
Sự sống học thuật đầu tiên thể hiện ở hai số Tập san Sử Địa Văn, sang
số 3 đổi thành Tập san Văn Sử Địa. Sau ngày “khai sinh”, do neo người
làm trực tiếp, phần nghiên cứu Văn học có thể nói là khá mỏng, còn mảng
Địa lý chủ yếu kết hợp với bên giáo dục làm sách giáo khoa cho các trường
phổ thông. Từ Tân Trào sang nhà in Tiến bộ ở Ghềnh Quýt để chạy in tập
san phải qua sông Phó Đáy và 24 đoạn suối. May là cơ quan đã có thanh
niên lo việc này. Và cũng may cho họ là có xe đạp để đi, cứ thế vác qua
sông suối, cốt sao bản thảo khỏi ướt. Không được vào khu vực nhà in đóng,
họ phải ở lại lán trạm giữa rừng, chờ có bản in thử để sửa, ngày xơi hai lon
gạo, hai quả trứng vịt.
Tập hợp tư liệu, lập thư viện là một công việc phải làm gấp rút, có khi
còn cần gấp rút hơn viết lách. Chiến tranh đang từng ngày, thời cuộc chạy
thoăn thoắt, sách vở, các giá trị vĩnh cửu có thể tiêu tan bất cứ lúc nào. Đầu
năm 1954, số sách báo Trần Văn Giầu, Đào Duy Anh tập hợp được, tự