cũng yêu nước, có lí gì cho họ là “không tiến bộ” khi họ chưa hề biết chủ
nghĩa cộng sản là gì.
Tư liệu cho cuốn sách được bổ sung dày dặn dần, khi bộ “Tài liệu
tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam” do Liệu chủ biên ra đời.
Nguyễn Khắc Đạm, Nguyễn Lương Bích, Văn Tạo, Nguyễn Công Bình... ,
bao nhiêu thứ nhặt được trong các nghiên cứu của họ nữa. Liệu có cả vạn
trang tư liệu để ngẫm ngợi, nung nấu thành gần nghìn trang sách. Bản thảo
viết trên mặt sau những tờ tin, chữa be bét, được cái chữ dễ đọc nên người
đánh máy không mất công đoán.
Quyển I bộ “Lịch sử tám mươi năm chống Pháp” hoàn thành và được
in năm 1956, dày 328 trang khổ to, làm nhanh và suôn sẻ. Quyển II không
như thế. Viết về giai đoạn Đảng Cộng sản đã ra đời, đánh giá của các nhà
lãnh đạo đang còn sống có những chỗ vừa khác nhau, vừa khác ông. Nó có
hai tập, tập Thượng dày 156 trang ra năm 1958, tập Hạ 230 trang ra năm
1960. Đây là cuốn sử dầy dặn, hệ thống nhất lúc đó về thời kì này. Nó được
dùng làm giáo khoa trong trường đại học, đem ra nước ngoài giới thiệu.
Trần Huy Liệu nhận huân chương Humbolt và bằng viện sĩ thông tấn của
viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa dân chủ Đức, có tiền đưa Nghiêm gom
mộ nội tộc về một khu “lăng” ở quê. Niềm vui quả là lớn, đôi khi ông nghĩ
mình đã làm hết bổn phận với cuộc đời.
Nhưng cuộc đời vẫn trôi, và ông thì còn sống. Liệu đi nước ngoài
nhiều hơn, đổi ô tô con, từ chiếc Moskvich biển HNA 861 sang Lada đời
mới mầu trắng. Nhà có bìa mua hàng loại A, “phẩm hàm” của thứ trưởng,
ông không phải lo đến cái ăn. Bà Tý tham gia câu lạc bộ Phụ nữ trí thức,
sinh hoạt cùng các “mệnh phụ”. Gia đình thứ hai ở Hàng Buồm, cách nhà
ông hơn hai cây số. Nhuận bút viết báo dành đưa Sửu - giờ chỉ còn phải lo
chính cho hai đứa trẻ họ Trần, vì bà đã đi làm ở tổ đan len, không dư dật
nhưng không đến nỗi thiếu. Vinh và Dũng, hai con riêng của Sửu, một ở bộ
đội, một đi làm xa, đã có lương.