Nhưng thực tế càng diễn ra càng theo một chiều hướng khó lường.
Nhiều người vừa được ruộng theo cải cách ruộng đất đã phải tập trung lại,
cả ao chuôm, trâu bò. Làm theo kẻng, chấm điểm cũng bấy nhiêu, nên đều
“tám giờ vàng ngọc” cả mà ai cũng trông nhau. Cấy nhanh, bừa kĩ cũng ăn
có chừng nấy. Tập thể, cộng sản có nghĩa là “dàn hàng ngang cùng tiến”,
làm cầm chừng, ăn nếm náp. Hết “giờ”, nông dân về hùng hục trên mảnh
đất riêng được dành lại, chiếm 5% chỗ đất trước khi góp vào hợp tác xã, có
nơi gọi là “ruộng rau xanh”. Bón kĩ, cày sâu, bừa ngấu, nên chi chúng cho
bộn thóc, hơn hẳn những bờ xôi ruộng mật bên “tập thể”.
Vì sản lượng trên phần đất chung không cao, thuế má, các khoản thu
từ nông nghiệp hạn chế theo. Sinh hoạt miền Bắc cứ thấp dần, tem phiếu ở
thành thị cũng như sự cào bằng ở nông thôn đều chỉ duy trì một mức sống
tối thiểu. Tóm lại là ổn định trong gieo neo. Trong các tổng kết, người ta
giải thích đó là do tâm lý tư hữu, chỉ biết mảnh đất của riêng mình của
nông dân. Và báo chí, đến lượt mình, lại lên án sự lạc hậu ấy.
“Đói thì đầu gối phải bò”. “Túng thì phải tính”. Đã có chỗ đói. Bình
thường ăn dè sẻn, đến trận mưa đá, bão lốc thì mất hẳn. Cái khu vực mênh
mông nhất của miền Bắc cứ tiêu điều, cạn kiệt. Khá lâu sau cuộc bảo lưu ý
kiến của Trần Huy Liệu, tại tỉnh nửa đồng bằng, nửa trung du Vĩnh Phú,
ông bí thư Kim Ngọc lãnh đạo cấp uỷ ra nghị quyết chia ruộng ra giao
khoán, tạm thời thôi, cho nông dân. Sản xuất lên được một chút thì Trung
ương biết chuyện. Kim Ngọc mất chức vì “trái đường lối”. Vĩnh Phú lại tiu
nghỉu như mèo cắt tai.
Nhưng lại chỗ khác phá rào. Một huyện Đồ Sơn ở Hải Phòng mấy
năm liền im re chả kêu ca túng đói gì. Trên tìm hiểu, hóa ra họ khoán chui
đã lâu. Và chả phải chỉ có Đồ Sơn. Bây giờ thì người ta phải tra tận gốc rễ
cái “phong trào tiêu cực” ấy. Nông dân, và nói chung, con người ta, liệu có
ai thích chả có quyền lợi riêng gì trong hoạt động lao động không, có phải
là ai ai cũng thích “cống hiến hết” cho tập thể? Kết quả của quá trình phân