"Thưa bác, tám ạ", nó lễ phép trả lời.
"Sắp sửa rèn cặp trưởng thành được rồi đấy!" bác nó kêu lên.
Khắp xung quanh lũy tre làng cao vút, có chất đống những bụi gai khô
và giấu kín trong đó là những chông nhọn để đâm què mọi ác thú hoặc gian
phi đến cướp phá. Nhưng Kunta không để ý đến những thứ đó mà đối với
mấy đứa trẻ trạc tuổi nó đang ở quanh đấy, nó chỉ liếc mắt ngó qua. Nó hầu
như không nghe thấy tiếng náo động của lũ vẹt và khỉ trên đầu cũng như
tiếng sủa của bầy chó uôlô dưới chân, khi hai ông bác đưa cha con nó một
vòng quanh ngôi làng mới đẹp đẽ. Mọi nhà đều có sân riêng, Xalum cho
biết thế, và kho chứa lương khô của mọi phụ nữ đều được dựng ngay bên
trên chỗ nấu ăn để khói bếp giữ cho gạo, mạch và kê khỏi bị sâu bọ.
Kunta hầu như phát chóng mặt vì nỗi cứ phải ngoắt đầu lia lịa theo dõi
những điều lý thú, hết cảnh này đến mùi kia hoặc âm thanh nọ. Nghe lỏm
thấy người ta nói bằng những thổ ngữ Manđinka mà thỉnh thoảng nó mới
hiểu một chữ là một điều vừa mê say vừa bối rối. Giống như mọi người
Manđinka khác - trừ những người có học vấn như arafang - Kunta hầu như
không biết gì về ngôn ngữ của các bộ lạc khác, kể cả những bộ lạc lân cận.
Nhưng nó đã bỏ khá nhiều thì giờ quanh quẩn bên gốc cây lữ khách nên có
thể phân biệt được người nào thuộc bộ lạc nào. Người Fula có khuôn mặt
trái xoan, tóc dài, môi mỏng và các nét sắc cạnh, với những sẹo dọc ở hai
bên thái dương. Người Uôlôf cực đen và rất dè dặt, người Xêrahuli da sáng
hơn và thân hình nhỏ nhắn. Còn người Jôla thì không trộn lẫn vào đâu được
- toàn thân đầy sẹo và mặt lúc nào cũng như khoác một vẻ dữ tợn.
Kunta nhận ra người của tất cả các bộ lạc ấy trong ngôi làng mới,
nhưng ngoài ra còn có những người nó không nhận ra. Một số lớn tiếng mà
cả với những thương nhân mang hàng đi bán. Nhiều bà già rao những tấm
da thuộc và các phụ nữ trẻ mà cả những trâm cài đầu làm bằng gỗ xizau và
bao-báp. Tiếng rao: "Côla! Côla vừa đẹp vừa thắm!" thu hút một đám
người mà số rằng ít ỏi còn lại đã ố vàng vì nhai hạt côla.