sự gì xấu đến đâu chăng nữa, già Nyô Bôtô cũng vẫn nhớ ra được thời kỳ
khác mà tình hình còn tệ hại hơn thế. Sau hai ngày mưa lớn - bà kể với bọn
trẻ là đến những ngày nắng thiêu đốt. Mặc dầu mọi người cầu nguyện Chúa
Ala rất khẩn thiết, nhảy hoài điệu nhảy mưa do tổ tiên truyền lại và mỗi
ngày tế hai con dê, một con bò mộng, tất cả những gì mọc trên mặt đất vẫn
bắt đầu héo hắt và chết. Cả những vùng nước trong rừng cũng khô cạn, già
Nyô Bôtô kể, và thoạt tiên là chim rừng, rồi đến thú rừng, ốm lử vì khát,
bắt đầu xuất hiện ở giếng làng. Đêm đêm, trên bầu trời trong như pha-lê,
hàng ngàn vì sao sáng lấp lánh, một ngọn gió lạnh thổi và ngày càng có
nhiều người ốm. Rõ ràng, ma quỷ hoành hành ở Jufurê.
Những người còn khỏe tiếp tục cầu nguyện và nhảy múa, rồi sau hết,
con dê cuối cùng và con bò cuối cùng được đem tế nốt, cứ như là Chúa Ala
đã quay lưng lại không đoái hoài đến làng Jufurê nữa vậy. Một số - gồm
những người già, yếu và bị bệnh - bắt đầu lăn ra chết. Những người khác bỏ
đi, tìm một làng khác để cầu xin một người nào đó có lương thực nhận
mình làm nô lệ, cốt được chút gì vào bụng, còn những người ở lại thì đâm
mất tinh thần, nằm bẹp trong lều. Chính lúc đó, già Nyô Bôtô kể, Chúa Ala
đã xui khiến bước chân của thầy tu Kairaba Kunta Kintê rẽ vào làng Jufurê
đang sắp chết đói. Thấy cảnh dân làng như vậy, người bèn quỳ xuống và
cầu Chúa Ala suốt năm ngày sau, hầu như không ngủ và chỉ thỉnh thoảng
nhấp vài ngụm nước cầm hơi. Và đến tối ngày thứ năm, một trận mưa lớn
kéo đến, trút xuống như cơn lũ và cứu sống làng Jufurê.
Khi bà kể xong, những đứa trẻ khác kính phục nhìn Kunta, thằng bé
mang tên người ông lỗi lạc, chồng của bà nội Yaixa. Ngay cả trước đó,
Kunta cũng đã thấy bố mẹ những đứa kia đối xử với bà nội Yaixa như thế
nào, và nó đã mang máng cảm thấy bà là một phụ nữ quan trọng khác nào
già Nyô Bôtô chắc chắn cũng là người như vậy.
Những trận mưa lớn tiếp tục đổ xuống từng đêm cho đến khi Kunta
cùng những đứa trẻ khác bắt đầu thấy những người lớn lội qua làng, bùn