đôi càng vào lớp thịt hai bên vết toác, bà khéo léo dí bẹp thân nó, để cái
đầu ở nguyên chỗ, cho đến khi vết thương được khâu liền lại.
Cho những đứa trẻ kia lui, bà bảo Kunta nằm xuống nghỉ bên cạnh bà
trên giường. Nó nằm mà nghe bà nặng nhọc thở trong khi bà nín lặng một
lát. Rồi bà nội Yaixa khoát tay về phía một chồng sách trên giá cạnh
giường. Cất giọng chậm rãi và dịu dàng, bà kể cho Kunta nghe thêm về ông
nội, theo lời bà, là chủ nhân của những cuốn sách kia.
Tại đất nước quê hương Moritanya, khi Kairaba Kunta Kintê đến tuổi
ba mươi vụ mưa 1, thầy dạy ông, một giáo trưởng, ban phước cho ông,
phong thành một thánh nhân, bà nội Yaixa nói vậy. Ông nội Kunta đã kế
tục một truyền thống gia đình các bậc thánh nhân trở ngược về trước hàng
mấy trăm vụ mưa trên vùng đất Mali cổ xưa. Hồi còn là một thanh niên
thuộc lứa kafô thứ tư 2, ông đã xin vị giáo trưởng già nhận là môn đồ và
trong suốt mười lăm vụ mưa sau đó đã viễn du cùng bầu đoàn của thầy gồm
thê thiếp, nô lệ, môn đồ và trâu bò, dê trong cuộc hành hương từ làng này
qua làng khác phụng sự Chúa Ala cùng thần dân của người. Trên những
nẻo đường mòn lầm bụi và những vũng khe lầy lội, dưới nắng thiêu và mưa
lạnh, qua những con thung xanh và những vùng đất hoang lộng gió - bà nội
Yaixa kể - họ hì hụi từ Moritanya đi về phương Nam.
Được phong là thánh nhân, Kairaba Kunta Kintê liền một mình lang
thang nhiều tuần trăng qua các nơi thuộc đất nước Mali cổ xưa như Kêyla,
ĐJila, Kangaba và Timbúctu, kính cẩn phủ phục trước các vị thành nhân
già rất vĩ đại, cầu xin các vị ban phúc cho mình thành công, điều mà tất cả
các vị đều sẵn lòng ưng thuận. Thế rồi Chúa Ala đã đưa bước chân bậc
thánh nhân trẻ tuổi theo hướng Nam, cuối cùng tới Gămbia, nơi ông dừng
chân đầu tiên ở làng Pakali N’ Đing.
Trong một thời gian ngắn, thấy kết quả mau chóng của những lời ông
cầu nguyện, dân làng liền hiểu ra rằng vị thánh nhân trẻ tuổi này dã được
ân sủng đặc biệt của Chúa Ala. Trống con, trống cái mách lẻo loan tin đi xa