và phần trên con chuột. Sự việc xảy ra, chính anh cũng không thể tin. Tất
cả nỗi cuồng nộ chất chứa trong anh bao lâu nay đổ dồn xuống cánh tay và
bàn tay anh. Anh xiết mỗi lúc một chặt - con chuột giãy giụa và kêu choe
chóe - cho đến khi anh cảm thấy mắt nó lòi ra, sọ nó nát rụn dưới ngón tay
cái của anh. Lúc bấy giờ, sức lực mới rút đi khỏi những cánh tay anh và
Kunta mới buông cái xác đã nát nhũn ra.
Một hai hôm sau, tên trùm tubốp bắt đầu đích thân xuống hầm tàu,
mỗi lần đều phát hiện thêm - và tháo xiềng luôn thể - ít nhất là một cái xác
không hồn. Khạc nhổ trong không khí hôi thối, trong khi những tên khác
cầm đèn giơ lên soi cho hắn nhìn, hắn bôi thuốc mỡ, rắc bột và ấn cái cổ
chai đen vào miệng những người còn sống. Kunta cố nén để khỏi kêu đau
khi những ngón tay xát mỡ vào lưng anh hoặc cái chai chạm vào môi anh.
Anh cũng rụt lại khi những bàn tay trắng trợt nọ chạm vào da mình, thà anh
bị roi quất còn hơn. Và trong ánh đèn màu da cam, những bộ mặt tubốp
mang một vẻ bềnh bệch chẳng có nét gì, mà anh biết nó sẽ không bao giờ
bỏ buông tha tâm trí anh cũng như cái uế khí đang bao bọc anh vậy.
Nằm đó trong nhơ nhớp và sốt mê man, Kunta không còn biết là bọn
anh đã ở trong bụng con tàu này hai tuần trăng hay sáu tuần trăng, hay thậm
chí một vụ mưa. Cái người nằm cạnh lỗ thông hơi, có thể qua đó mà tính
ngày giờ, đã chết rồi. Và giữa những người còn sống sót, cũng chẳng còn
có giao lưu gì nữa.
Một lần, đang ngủ lơ mơ, choàng thức dậy, với một nỗi kinh hoàng
không thể xác định, Kunta cảm thấy cái chết đang ở cạnh mình. Rồi, lát
sau, anh nhận ra rằng mình không còn nghe thấy cái tiếng khò khè quen
thuộc của người bạn cùm nằm bên nữa. Mãi một hồi lâu, Kunta mới dám
quyết định thò tay sờ vào cánh tay bác ta. Anh khiếp hãi rụt lại vì cánh tay
đó lạnh ngắt và cứng đờ. Kunta nằm run lảy bảy. Dù vô đạo hay không, thì
anh và người Uôlôf này cũng đã trò chuyện với nhau, đã cùng nằm với
nhau và giờ đây còn lại có mình anh.