sao mỗi lần nhấc chân đều nhắc nhở rằng anh sẽ không tài nào chạy nổi đến
năm bước qua cánh đồng với những còng sắt này. Trong khi làm suốt buổi
chiều, Kunta quyết định là lần sau, trước khi định trốn, phải kiếm cho ra
một thứ khí giới nào đó để đánh nhau với lũ chó và người đuổi bắt. Không
một bày tôi nào của Chúa Ala được phép không đánh trả khi bị tấn công,
anh tự nhắc nhở như vậy. Dù đó là chó hay người, trâu điên hay sư tử đói,
đã là con trai của Ômôrô thì đừng có nghĩ đến chuyện từ bỏ chiến đấu.
Sau khi mặt trời lặn tiếng tù và lại vang lên - lần này ở đằng xa. Trong
khi nhìn những người da đen nọ hối hả sắp hàng, Kunta ước gì mình có thể
thôi không nghĩ rằng họ thuộc những bộ lạc bề ngoài giống hệt họ bởi vì họ
chỉ là những kẻ vô đạo không xứng đáng hòa lẫn với những người cùng bị
bắt với anh trên con xuồng lớn.
Song cái bọn tubốp thật ngu xuẩn biết bao: Những người mang dòng
máu Fulani - dù chỉ là những mẫu tồi như thế này - đáng lẽ phải để họ chăn
nuôi gia súc, thì chúng lại đem dùng vào việc hái ngô; ai cũng biết rằng
người Fulani sinh ra để chăn gia súc, rằng quả thực, dân Fulani và gia súc
cùng nói chung một thứ tiếng. Ý nghĩ này bị cắt ngang khi tên tubốp cưỡi
"ngựa" hoa roi vun vút xua Kunta về cuối hàng. Anh đang làm theo thì
người phụ nữ thân hình trùng trục nặng nề ở cuối hàng vội bước lên mấy
bước, cố tránh thật xa Kunta. Anh cảm thấy muốn nhổ vào mặt mụ.
Khi họ bắt đầu cất bước - mỗi bước cà nhắc lại cào vào cổ chân anh
lúc này đã trày da và bắt đầu rỉ máu - Kunta nghe thấy mấy con chó sủa ở
đằng xa. Anh rùng mình nhớ đến những con đã săn đuổi và tấn công anh.
Rồi hồi ức vụt lóe thắp trong anh hình ảnh con chó uôlô của chính mình đã
chết như thế nào khi chọi nhau với bọn người bắt anh ở châu Phi.
Trở về lều, Kunta quỳ xuống, chạm trán vào nền đất rắn, hướng về
phía mà anh biết mai tới mặt trời sẽ lại mọc lên. Anh cầu nguyện hồi lâu để
bù lại hai lần phải bỏ qua ở ngoài đồng, vì lẽ tên tubốp cưỡi "ngựa" chắc
chắn sẽ cắt ngang bài kinh bằng một ngọn roi quất trên lưng anh.