thể dễm trùng. Bất cứ vết xước nào, mày cứ đái đại vào cho tau. Nếu có
chảy máu, mày đắp lên một cái mạng dện hay một dúm lông bụng mềm của
thỏ. Nếu mầy không làm thế, hai ba ngày sau, gà mầy bắt đầu nom dư teo
lại, dư cái dẻ mềm dũn, rồi chả mấy chốc, gà mày chết. Gà chọi, tau nghe
nói, cũng dư ngựa đua. Bọn nó cứng rắn đấy, cơ mà đồng thời cũng lại là
dững sinh linh hết sức mong manh."
Joóc có cảm giác như bác Mingô đã dạy nó một nghìn điều, vậy mà
hàng nghìn điều khác vẫn còn trong đầu bác. Joóc đã cố gắng tìm hiểu mà
vẫn không sao nắm được làm thế nào bác Mingô và ông chủ có thể cảm
thấy những con gà nào sẽ tỏ ra nhanh mạnh nhất, táo tợn nhất và kiêu dũng
nhất trong bãi đấu. Đó không phải đơn giản là những ưu điểm mắt thấy
được mà giờ đây, ngay cả Joóc cũng đã biết nhận ra: lý tưởng là lưng rộng,
thẳng đẹp và một cái bụng nhỏ chắc nịch. Nó biết rằng những cánh tốt,
vững chãi, tròn xương phải có lông ống cứng, rộng, bóng bẩy, thiên về giao
nhau dưới một cái đuôi trành góc giữa; rằng những chiếc dò lực lưỡng,
mập, ngắn, phải xoạc rộng, với những cựa khỏe cách đều nhau trên đôi
chân vững chắc có ngón sau đen dài xòe hẳn về phía sau và áp xuống mặt
đất.
Bác Mingô thường mắng Joóc về tội trở nên mê thích một số con đến
nỗi dường như quên cả những bản năng rừng rú của chúng. Thi thoảng, một
con gà chọi được cưng đang ngoan ngoãn nằm trong lòng Joóc, chợt nhìn
thấy một trong những con mồi già của bác Mingô, bèn quác một tiếng rầm
trời, vùng khỏi tay Joóc, hùng hổ đuổi con gà già khiến Joóc phải rượt theo
ách chúng lại trước khi con nọ giết chết con kia. Bác Mingô cũng dặn đi
dặn lại Joóc phải kiềm chế xúc động của mình tốt hơn mỗi khi một con gà
của nó bị giết trên bãi chọi; nhiều lần, anh cu Joóc cao to vạm vỡ đã òa lên
khóc. "Không ai có thể mong trận nào cũng thắng, tau đã biểu mày thế
không biết bao dêu lần rồi!" bác Mingô nói.