kế cận, gấp đôi tuổi mình, làm cả gia đình dè bỉu rằng cu cậu sẵn sàng cầu
hôn bất kỳ ai muốn nhồi đầy dạ dầy mình.
Việc Matilđa bảo Tôm rằng bà coi anh như chủ gia đình càng khiến
anh bàng hoàng hơn vì điều đó hàm ý rằng anh sẽ là người trung gian giao
thiệp với mexừ Liơ mà anh vốn cố tình lảng xa, rất ít tiếp xúc cụ thể. Từ
khi dựng cửa hiệu rèn, ông chủ, chả biết do đâu, bao giờ cũng có vẻ tôn
trọng sự dè dặt trầm tĩnh của Tôm, cùng với khả năng hiển nhiên của anh
về nghề rèn, nhờ đó khách hàng cứ ùn ùn đến ngày một đông. Bao giờ họ
cũng trả ông chủ tại đại sảnh mọi công sá về các việc Tôm đã làm, và mỗi
chủ nhật ông chủ phát cho Tôm hai đôla tiền công hàng tuần.
Cùng với tính trầm lặng cố hữu không muốn nói chuyện nhiều với ai,
Tôm còn có khuynh hướng ngẫm ngợi đào sâu những ý nghĩ thầm kín.
Không ai ngờ rằng trong hai năm nay, có khi hơn nữa, anh đã xoay đi lật lại
trong đầu những điều cha anh mô tả về những triển vọng đáng phấn khởi
mà "trên Bắc" phơi bày trước người dân da đen tự do, và Tôm đã cân nhắc
rất kỹ ý định đề nghị với toàn thể gia đình xóm nô là, thay vì chờ đợi thêm
hàng bao năm đằng đẵng để cố mua lại tự do, họ nên vạch kế hoạch cẩn
thận và tiến hành một cuộc chạy trốn hàng loạt lên miền Bắc. Anh đã miễn
cưỡng phải bỏ ý định ấy khi nhận ra rằng bà nội Kitzi hẳn đã ngoài sáu
mươi tuổi, và các bà già Xerơ, Malizi, cũng coi như người trong gia đình,
đã ngoại thất tuần. Anh cảm thấy ba người này ắt sốt sắng nhất muốn đi
khỏi, song anh khó tin có bà nào sống qua được những hiểm nghèo và gian
khổ của một nước bài tuyệt vọng như vậy.
Gần đây, Tôm đã thầm suy luận rằng tổn thất vừa rồi của ông chủ
trong chọi gà hẳn là còn lớn hơn ông bộc lộ. Tôm đã theo dõi sát mexừ Liơ
mỗi ngày một thêm căng thẳng, phờ phạc và già nua, sau mỗi chai uýtxki
cạn đến đáy. Nhưng Tôm biết rằng chứng đáng lo nhất về một cái gì bất ổn
sâu sắc là theo lời Luyx, đến nay, ông chủ đã bán đi ít nhất là nửa số gà của
mình, mà gây được bấy nhiêu giống xoàng ra cũng phải mất nửa thế kỷ.