rực rỡ khi vầng thái dương xuất hiện, rồi sau đó họ bay qua bầu trời
xanh và bầu không khí trong lành, tươi mới, ngọt ngào và ẩm ướt.
Trong ánh sáng ban ngày, các thiên thần trở nên mờ nhạt hơn, dù
sự lạ kì của họ vẫn hiện hữu trước ánh mắt của bất cứ ai. Ánh sáng mà
Ruta Skadi nhìn thấy từ họ vẫn không phải là của mặt trời lúc này đang
lên cao, mà là một thứ ánh sáng khác từ một nơi nào đó khác biệt.
Các thiên thần cứ liên tục bay không mệt mỏi, và cô cũng giữ nhịp
độ một cách không mệt mỏi. Cô cảm thấy niềm hân hoan mãnh liệt
xâm chiếm lấy mình, rằng cô có thể ra lệnh cho những thực thể bất tử
này. Cô thấy hân hoan trong tận máu thịt, trong cành thông xù xì đang
áp sát vào da thịt mình, trong nhịp đập trái tim và sự sống của tất cả các
giác quan, trong cơn đói mà lúc này cô đang cảm nhận thấy, trong sự
hiện diện của con linh thú chim oanh cổ xanh có giọng hót ngọt ngào,
trong mặt đất bên dưới cô cùng sự sống của mọi sinh vật, cây cối và
muông thú; cô vui mừng vì vật chất cấu tạo nên mình cũng giống như
họ, và vì biết được rằng khi chết đi, da thịt của cô sẽ nuôi dưỡng những
sinh linh khác, cũng giống như họ đã nuôi dưỡng cô. Và cô cũng vui
sướng vì sắp được gặp lại Ngài Asriel.
Đêm tối lại ập xuống, các thiên thần vẫn tiếp tục bay. Đến một lúc
nọ, tính chất không khí bắt đầu biến đổi, không phải là xấu đi hay tốt
lên, chỉ đơn thuần là biến đổi. Nhờ vậy Ruta Skadi biết rằng họ đã ra
khỏi thế giới vừa rồi và vào một thế giới khác. Chuyện đó xảy ra như
thế nào thì cô không thể đoán nổi.
“Các thiên thần!” Cô gọi khi cảm nhận được sự thay đổi. “Chúng
ta vừa rời khỏi thế giới mà tôi tìm thấy các vị như thế nào vậy? Ranh
giới ở đâu thế?”
“Có những vị trí vô hình trong không khí,” câu trả lời vang lên,
“lối vào những thế giới mới. Chúng ta có thể thấy, nhưng cô thì
không.”
Ruta Skadi không thấy được những lối vào vô hình, nhưng điều đó
không cần thiết: phù thủy có thể định hướng tốt hơn cả chim chóc.