người về đằng sau, cười và nheo mắt từng trải. “Khoan đã. Hãy
xem khả năng tôi phán đoán về cá tính về một con người như thế
nào. Tôi cá tôi biết những gì đã xảy ra. Và nay chỉ là lời phỏng
đoán”. Hắn ta nháy mắt. “Một sự phỏng đoán có kỹ năng. Tôi cá là
anh sẽ thẳng tiến và làm cho cha anh nghĩ là tên của ông sẽ giúp anh
có được việc, chỉ là để làm hài lòng ông. Tôi nói có đúng không?”
Và một thực tế làm anh bối rối vì đấy đúng là sự thật. Vào
một ngày mùa thu của năm đó, với cảm cứng ngắc và trịnh trọng
trong bộ vét vải xéc, Frank đã đưa vợ về thăm cha mẹ mình; và trên
suốt cả đoạn đường đi đến Harrisburg anh đã đặt kế hoạch cho
việc ứng xử một cách tỉ mỉ, công phu để thông báo về đứa con và
công việc. “Ôi, nhân tiện đây, con đã có được một công việc ổn định
hơn,” anh định nói như thế, “một loại công việc ngớ ngẩn, không
thích thú một chút nào, nhưng tiền lương thì lại rất ổn”. Và rồi
anh sẽ để cho ông già nói.
Nhưng khi khoảnh khắc đó đến, trong căn phòng ở Harrisburg
lộn xộn bốc mùi ốm đau, thuốc men và dấu hiệu của cái chết,
cùng với việc bố anh cố gắng hết sức để ôn hoà, mẹ anh cố
gắng hết sức để nhỏ những giọt nước mắt hài lòng về chuyện đứa
trẻ và April cố gắng hết sức để thể hiện niềm tự hào một cách bẽn
lẽn và ngọt ngào - khi tất cả những điều đầy xúc động một cách giả
dối trong khoảnh khắc đó đã làm cho anh thoát khỏi sự lo lắng và
anh đã thốt ra - một công việc ở Văn phòng Nhà! - giống như một
đứa trẻ trở về nhà với một phiếu thành tích học tập tốt.
“Con đã gặp ai ở đó?” Earl Wheeler gặng hỏi, trông trẻ ra đến
mười tuổi so với mười phút trước đó. “Ted? Ai cơ? Ted Bandy? Không
thể tin được. Bố biết anh ta; dĩ nhiên, bố đã quên rất nhiều tên.
Anh ta cũng biết bố. Bố nghĩ thế? Có phải vậy không?”