bản của đạo cơ đốc là như vậy. Đối lập lại với nó, La-mã đề ra tư tưởng
trật tự. Nhưng lúc bấy giờ trạng thái vô trật tự nhất - cõi hỗn mang phổ
quát chính là mơ ước thiết tha của các man tộc đang chờ đến giờ xung
phong lên các thành quách La-mã. Giờ ấy đã đến. Những đô thành cũ
chỉ còn là những đống hoang tàn bốc khói. Xác chết ngổn ngang trên
các đường đi, cái thì đóng cọc, cái thì bị xe bò của người man di nghiền
nát. Không có cách gì cứu vãn được, vì châu Âu, vùng Tiểu Á và châu
Phi đều bốc lửa ngùn ngụt khắp nơi khắp chốn. Người La-mã như một
đàn chim mất tổ, chạy tan tác trên đám cháy đã bao trùm cả thế giới.
Họ bị người man di giết chết, bị thú rừng xé xác, họ chết trên các bãi sa
mạc vì đói, vì nóng, vì lạnh. Tôi có đọc một đoạn tự sự của một người
đương thời, kể lại rằng Proba, vợ của một quận trưởng La-mã, đang
đêm đưa hai cô con gái lên thuyền trốn khỏi thành La-mã, vừa bị những
toán rợ German của Alarich đột nhập vào. Trong khi thuyền trôi trên
sông Tiber, mấy người đàn bà La mã ấy trông thấy ngọn lửa đang thiêu
hủy Đô-thành Vĩnh cửu. Đó là cảnh tận thế...
Người lính Đức mở cái túi đựng đồ ra, thò tay vào tận đáy túi lấy ra
một cuốn sổ tay dày cộp, bìa da đã sờn và lần giở các trang một lát,
miệng mỉm cười dè dặt:
- Đây, - hắn vừa nói vừa chuyển sang ngồi bên cạnh Katya, - để bà
có thể hình dung rõ hơn người La-mã trước khi diệt vong như thế nào,
xin mời bà nghe một đoạn văn của Ammianux Marcellinux. Ông đã
miêu tả những vị chúa tể của vũ trụ này như sau:
"Những tấm áo dài bằng vải điều và lụa bay phất phới trước gió, cho
phép nhìn thấy ở bên trong một chiếc áo tu-ních sang trọng có thêu
hình nhiều loài thú vật. Có một đoàn tùy tùng gồm năm mươi gia nhân
theo hầu, những cỗ xe mui của họ phóng trên đường phố với một tốc độ
phi thường, rung chuyển cả mặt đường và các nhà lân cận. Nếu trong
bọn họ có ai vào các nhà tắm, thường ăn thông với các nhà hàng, nhà
ăn và những nơi đi dạo, người ấy sẽ cất tiếng hách dịch đòi phải đưa
những đồ dùng công cộng cho mình dùng riêng một mình. Khi rời nhà