giữa những ánh đèn hãy còn nhợt nhạt, trôi nhanh về hạnh phúc. Cửa
sổ trên cái chòi con đã vỡ hết. Đasa nhận ra màu giấy hoa trong phòng
nàng ngày trước, bây giờ đã trốc hồ rũ xuống từng mảng. Từ khung cửa
sổ bay ra một con quạ nhỏ. Ông lão đánh xe hỏi nàng:
- Bây giờ rẽ sang phải hay sang trái đây cô?
Đasa lấy tờ giấy ra xem lại số nhà. Xe dừng bánh trước một tòa nhà
nhiều tầng. Cánh cửa chính đã bị đóng ván từ bên trong. Thấy không có
cách gì hỏi thăm ai được. Đasa bước lên mấy cầu thang gác tối om tìm
căn nhà 112-A. Thỉnh thoảng có vài nhà nghe tiếng chân Đasa liền mở
hé cánh cửa ra nhìn. Có thể ngỡ chừng như sau mỗi cánh cửa kia đều
có một người đứng sẵn để báo cho các nhà khác biết có khách khả nghi.
Đến tầng thứ năm, Đasa gõ hai tiếng liền nhau rồi một tiếng nữa,
theo đúng lời dặn. Bên trong có tiếng chân rón rén rồi một người phì
phò sau lỗ khóa, dòm ra ngoài, nhìn kỹ Đasa. Cánh cửa mở ra, và một
bà đứng tuổi cao lớn có đôi mắt lồi màu xanh đậm rất dễ sợ, hiện ra
trên ngưỡng cửa. Đasa lặng lẽ đưa mảnh danh thiếp hình tam giác.
Người đàn bà nói:
- À, cô ở Pêterburg về... Mời cô vào. Họ đi qua một gian nhà bếp rõ
ràng là đã không nấu nướng gì từ lâu, rồi bước vào một gian phòng lớn
chăng rèm. Trong bóng tối mờ mờ, thấp thoáng những đường viền của
những bộ bàn ghế sang trọng, những đồ trang trí bằng đồng đen bóng
loáng, nhưng ở đây cũng có cái không khí giá lạnh, hoang vu của
những nơi đã lâu không có người ở. Người đàn bà mời Đasa ngồi
xuống ghế đi-văng rồi cũng ngồi xuống một bên, đôi mắt lồi dễ sợ mở
rộng ra nhìn khách.
- Cô nói đi, - bà ta ra lệnh, giọng nghiêm khắc và hách dịch.
Đasa thành tâm cố tập trung tư tưởng, bắt đầu truyền đạt một cách
thực thà những tin tức đáng buồn mà Kulitsek đã dặn nàng kể lại.
Người đàn bà siết mạnh đôi bàn tay mỹ miều đeo đầy nhẫn lên hai đầu
gối ép chặt vào nhau, vặn mấy ngón tay kêu răng rắc...