Ngồi đối diện với đại úy là một sĩ quan đứng tuổi, người đẫy đà, vai
đeo dây lụa tết bím màu trắng. Cái sọ hình quả trứng của ông ta nhẵn
nhụi và đồ sộ như thành trì của quyền lực. Trên cái mặt phì nộn cạo
nhẵn, đáng chú ý hơn cả là đôi môi dày: những cơ thịt đều đặn quanh
mồm ông ta cử động liên tục vì ông ta cứ ngồi nhai không lúc nào ngớt,
mắt chăm chú nhìn các đĩa thức ăn nguội. Cái cốc nhỏ lọt thỏm trong
bàn tay phốp pháp của ông: có thể thấy rõ rằng ông ta quen cầm cốc vại
hơn. Ông ta uống từng ngụm ngắn, đầu hất ra phía sau. Đôi mắt gấu
màu thiên thanh, nhỏ và thông minh của ông không dừng lại ở một
người nào, cứ như thể ở đây ông phải luôn luôn thủ thế. Các tân khách
quân nhân thường nghiêng người về phía ông với một vẻ chăm chú đặc
biệt. Đó là một vị khách mới, một anh hùng của giới cô-dắc vùng Ural,
thủ lĩnh Đutôv ở Ôrenburg.
Cách Đutôv không xa, một người mặc áo da két màu xám nhạt, bên
trong là một chiếc sơ-mi trắng tinh, ngồi giữa hai người phụ nữ xinh
xắn, một người tóc vàng, và một người tóc hạt dẻ. Đó là me-xừ Jannô,
đại sứ Pháp. Cái mặt choăn choắt của ông ta, với bộ ria rất bảnh và cái
mũi
545 nhọn, mang rõ những vết tích của một cuộc đời trác táng. Ông ta
nói giọng cố liếng thoắng, khi thì nghiêng người liếc trộm đôi vú để hở
một nửa của cô tóc hạt dẻ (vì tội này ông ta đã bị cô ta lấy cái hoa đánh
một phát vào tay), khi thì lại chạm vào cái vai tròn màu hồng mịn nõn
nà của cô tóc vàng đang cười rú lên như thể bị ông ta cù. Cả hai cô đều
nghe được tiếng Pháp, nhưng chỉ khi nào nói chậm. Có thể thấy rõ rằng
những môn hấp dẫn trên người hai cô đã làm cho ông Jannô đáng
thương ấy mất trí. Tuy vậy điều đó cũng không cản trở ông thừa những
lúc hưu chiến ngắn ngủi quay sang nói chuyện với ông chủ nhà máy
xay Brykin bệ vệ mới ở Ômxk tới, hay nâng cốc ca ngợi những chiến
công anh hùng của thủ lĩnh Đutôv. Sự quan tâm của me-xừ Jannô đối
với bột mì Xibiri, đối với thịt và bơ Ôrenburg cho thấy rõ tấm lòng tận
tụy nhiệt thành của ông đối với phong trào chống cộng: vào những lúc