Bêlôretsenxkaia và ra khỏi vòng vây. Đến cuối tháng chín quân đoàn
Taman xuất hiện ở gần Armavir đang bị quân Đênikin chiếm đóng,
dùng xung kích chiếm lấy thị trấn này và hợp được với tàn quân của
Xôrôkin ở Nêvinnômyxxkaia.
Xôrôkin, sau cuộc bại trận ở Vyxelki và Êkatêrinôđar, đã mất hẳn uy
tín trong quân đội. Sau khi đã say sưa nếm mùi men của chiến công
lừng lẫy rồi lại thể hiện nỗi uất ức đắng cay của chiến bại, Xôrôkin
ngày càng lùi xa mãi về phía đông, quay cuồng như một mảnh vỏ bào
trên luồng nước xoáy của cái mà mới cách đây ít lâu còn được gọi là
những sư đoàn, những đại đoàn, những trung đoàn. Bây giờ đó chỉ còn
là những đám đông hễ nghe tiếng súng của địch là bỏ chạy. Trong khi
rút lui, họ quét sạch tất cả trên đường đi. Họ chỉ mong có một điều: làm
sao thoát cho nhanh khỏi cái chết đang treo lơ lửng sau gáy họ, rồi
nhắm mắt bước thẳng. Những đoàn lính đào ngũ dài vô tận đi thất thểu
trên những cánh thảo nguyên vùng Têrek, dọc theo con đường thiên lý
của các dân tộc cổ đại phủ đầy ngải trắng và mộ cổ.
Từ Êkatêrinôđar ra đi có khoảng hai mươi vạn binh sĩ và dân lánh
nạn. Những người ở lại đều bị quân cô-dắc chém chết, treo cổ, tra tấn.
Trong thôn cô-dắc nào cũng có những xác chết treo lủng lẳng trên
những cây phong hình chóp nhọn. Bây giờ người ta trả thù quân đỏ
không thương tiếc vì không còn sợ họ trở lại nữa. Khắp vùng, người ta
tiêu hủy cả cái danh từ bolsêvik.
Xôrôkin là một con người do cách mạng đẻ ra. Bằng một bản năng
dã thú, ông ta cảm biết được những sự thăng trầm của nó. Bây giờ ông
ta không đứng ra điều khiển cuộc rút lui nữa; có làm như thế cũng vô
ích. Một sức mạnh tự phát đang dồn đoàn người về phía đông: sức
mạnh đó chỉ ngừng thôi thúc khi sức ép của bạch quân đang truy kích
giảm bớt đi.
Ông ta chỉ còn có cách hầm hầm nhìn ra cửa sổ của toa tàu đang lăn
bánh qua những cánh thảo nguyên cháy xém, qua những nấm mồ chung
đắp tùm lum lên như ngọn gò của người Pelajght, người Celti, người