mày thấy ta - giờ ta ở đây, mai ta đã đi rồi. Mày tưởng ta muốn sống ở
cái khu dơ dáy, điện đóm không có, nhà vệ sinh không có, nước uống
không có sao? Mày mà tưởng vậy thì mày điên rồi! Mày là thằng
nhóc con, mày chẳng biết gì hết. Đám người tụi mày không nghiêm
túc. Mày cứ ngồi trong góc kia như con gà và nhìn ta, nhưng khi thời
điểm đến thì mày sẽ nhớ điều ta đang nói.”
Tôi chẳng hiểu lời nào của bà, mà hiểu vẻ biểu lộ trên mặt bà. Khi
xong bài nói, miệng bà cong lên khinh miệt, như thể bà xử sự đầy sâu
sắc với chính mình qua việc nói với tôi như vậy. Bà thốt ra một tiếng
chế nhạo. Bà đứng lên, xách đèn lồng xuống sân sau. Quán tối hoàn
toàn. Tôi nghe thứ gì đó động đậy gần nồi đất, nghe thứ gì đó đang
chạy gấp lên các bức tường. Gió xào xạc rèm cửa, lùa vô quán và vỗ
phần phật vào mép mấy cuốn niên lịch. Đêm xuống cùng với gió,
mang đến mùi rượu cọ ôi, ruồi chết, mạng nhện, mùi gỗ, dầu hôi và
đồ ăn cũ. Và trội lên mọi thứ là mùi đêm, như hương đất thơm trước
cơn bão.
Trong bóng đêm mọi thứ hòa vào nhau. Bàn như những con thú
đang cúi mình. Ghế như con người đang ngủ trên không. Một cơn gió
mạnh thổi rèm cửa. Một bóng đen cụ thể hơn đi vào quán. Một người
đàn ông. Ông cầm điếu thuốc. Trước khi tôi ngửi ra mùi khói thì đã
ngửi được mùi sình, mùi mồ hôi của nỗi kiệt sức, của tâm trạng thảm
bại và nghe tiếng khớp kêu khắp người ông lúc di chuyển.
“Ba!” Tôi nói. Ông đốt que diêm. Mắt ông không sáng, mặt thì mệt
mỏi. “Con làm gì mà ngồi trong tối vậy?”
“Không có gì.”
Que diêm cháy hết, ông mò mẫm theo mấy cái ghế đến ngồi cạnh tôi.
Ông bốc mùi làm việc quá sức, mùi nỗi buồn và tàn thuốc. Ông ôm
tôi và mùi nách ông áp đảo tôi.