huyền bí tăm tối của nó. Rồi tôi nghe một tiếng kêu ở đằng xa. Có khi
nó phát ra ở các ngôi nhà tranh, lều kẽm, nhà đất trộn rơm, nhà bằng
thùng thiếc hoặc từ những cánh cửa ẩn mật của trái đất. Mẹ dừng lại
chỗ lối mòn giao nhau. Gió mạnh hơn và đêm tru lên. Cả vùng dường
như bốc mùi đấu tranh và chết chóc. Chó cắn nhau gần giếng. Rồi
trong bóng đêm, từ trong một lối mòn u tối hiện ra dáng người mặc áo
thụng trắng xóa, cầm cái đèn lồng giơ lên trên. Ánh sáng của hai viên
ngọc trong mắt bà, tóc bà xõa ra hết, và nếu không nhờ cái áo thụng,
tôi đã cho rằng bà là một dạng bà điên siêu phàm.
“Ăn năn! Ăn năn!” Bà kêu lên. “Ánh sáng là cuộc đời chúng ta, mà sự
sống chúng ta là ở Chúa! Thế gian đầy tội lỗi. Ăn năn! Hoặc cùng
bóng tối của ngươi, ngươi sẽ bị đuổi đi.”
Chúng tôi lắng nghe giọng nhói buốt của bà.
“Hãy tỉnh thức, ngươi là kẻ yếu đuối, canh giữ linh hồn mình vì cái ác
ở Babylon đã đến để cướp đi sự sống của ngươi! Ăn năn! Cầu xin ánh
sáng và giấc ngủ của ngươi sẽ được biến đổi!”
Bà khuấy gió, rẽ đêm bằng tiếng nói, rồi chẳng mấy chốc chúng tôi
chỉ còn thấy ánh sáng đèn của bà. Rồi chẳng lâu sau, cũng trên lối
mòn đó hiện ra một kẻ loạng choạng như người què, và rồi chúng tôi
nhận ra được sức mạnh nào đó ở đôi chân người ấy. Đó là hình dáng
một người đàn ông. Ông chửi thề, rủa sả. Lập tức thậm chí không
nhìn mặt, mẹ đã chạy đến ôm lấy ông. Đó là ba. Tóc ông bệt sình, ông
lảo đảo nhưng không nhờ đỡ. Quần áo rách rưới, khuôn ngực lấp
lánh, ánh mắt rối loạn, ông có mùi máu và rượu.
“Cám ơn bà đó giùm anh,” ông lảm nhảm. “Bả cứu đời anh đó. Tụi nó
định giết anh nhưng bả xuất hiện, tụi nó tưởng bả là thiên thần nên la
hét chạy mất.”
Chúng tôi ngoái lại, nhưng nơi có ánh đèn của bà giờ chỉ là bóng tối.